Giá nội địa phục hồi, dẫn đầu là HRC, do số liệu sản xuất thép thô ở Trung Quốc giảm.
Yếu tố hỗ trợ:
_Sản lượng thép thô của Trung Quốc đạt 69.31 triệu tấn trong tháng 11, giảm 3.2% so với tháng 10 và giảm 22% so với năm ngoái. Giá duy trì đà giảm liên tục từ tháng 6 tới nay.
_Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã bơm tiền mặt tổng cộng 500 tỷ nhân dân tệ (78.6 tỷ USD) vào hệ thống tài chính thông qua cơ sở cho vay trung hạn (MLF) để duy trì tính thanh khoản trên thị trường. Ngân hàng cũng đã bơm 10 tỷ NDT vào thị trường thông qua các giao dịch repo ngược trong bảy ngày với lãi suất 2.2%.
Tại thị trường trong nước, HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 50 NDT/tấn lên 4,900 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 5 tăng 1.52% lên 4,609 NDT/tấn. Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn lên 4,820 NDT/tấn được hỗ trợ bởi giá giao sau tăng. Giá thép cây giao sau tháng 5 tăng 1.1% lên 4,441 NDT/tấn.
Một số nhà máy công bố chính sách giá khuyến khích đại lý bổ sung hàng trước Tết Nguyên đán, nhưng hầu hết người mua đều do dự trong việc tích trữ do giá đang cao hơn mặt bằng chung của các năm gần đây.
Trên thị trường xuất khẩu, các nhà máy lớn của Trung Quốc đã chọn đứng ngoài thị trường xuất khẩu do sự chênh lệch lớn. Chỉ có một nhà máy ở miền đông Trung Quốc chào bán thép cây ở mức 770 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết vào đầu tuần này, nhưng không cạnh tranh so với thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức khoảng 710 USD/tấn trọng lượng thực tế.
Tương tự đối với cuộn cán nóng, các nhà máy lớn của Trung Quốc im lặng, chỉ có hạn chế người mua đường biển đặt giá thầu tương đương 740 USD/tấn fob Trung Quốc.
Nhìn chung, xu hướng giá vẫn còn dư địa giảm trong thời gian tới, vì áp lực từ chi phí nguyên liệu thô giảm, cộng với tiêu thụ chậm trước lễ Tết, tâm lý tiêu cực từ khủng hoảng nợ Evergrande và ảnh hưởng dịch bệnh phức tạp với biến thể mới Omicron đối với ngành vận tải. Các thương nhân tăng cường bán khống trên thị trường, gây thêm áp lực tâm lý.
Tuy nhiên, dự kiến mức giảm sẽ được hạn chế phần nào vì có sự tăng trưởng đan xen trước các chi phí năng lượng, vận tải tăng, cắt giảm sản xuất tăng cường tới tháng 2, sự kích thích từ phía chỉnh phủ thông qua các cắt giảm lãi suất bắt đầu hỗ trợ thị trường bất động sản đầu năm sau và điều kiện thời tiết khắc nghiệt trong tháng 12 dự kiến tác động đến nguồn cung nguyên liệu thô, giữ giá ở mức cao. Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước tăng giảm đan xen, dao động 4,500-5,000 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, giá tiếp tục biến động theo giá nội địa, tăng giảm đan xen trong thời điểm cuối năm và tháng 1 trước thềm tết Nguyên đán bắt đầu từ cuối tháng 1. Biên độ biến động không lớn, nhưng phạm vi giá mở rộng trong khoảng 800-850 USD/tấn cfr Việt Nam cho HRC SAE1006 tới cuối tháng 1.