Giá thép Trung Quốc vẫn tiếp tục giảm, nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu chậm chạp vào mùa đông, giá nguyên liệu thô giảm, các số liệu kinh tế suy yếu và tâm lý thị trường bi quan, mặc dù việc cắt giảm sản xuất vẫn đang tăng cường.
Cụ thể, đầu tư vào lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc tháng 10 đã giảm 5.4% so với năm ngoái và đầu tư vào cơ sở hạ tầng giảm 2.9% so với cùng kỳ năm ngoái. Cục dữ liệu thống kê quốc gia cho biết sản lượng tủ lạnh tháng 10 của Trung Quốc giảm 13.5%, máy giặt 8.7% và ti vi 5.5% trong khi sản lượng máy điều hòa không khí tăng 6%.
Các nhà máy luyện cốc ở Trung Quốc phải đối mặt với khoản lỗ hơn 400 NDT/tấn (62 USD/tấn) sau khi các nhà máy liên tục giảm giá. Các nhà máy sản xuất than cốc đã bắt đầu cắt giảm sản lượng 30-50% ở các vùng như Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông, Nội Mông và Thiểm Tây. Sản lượng giảm sẽ làm giảm giá than luyện cốc ở Trung Quốc, tiếp tục hạ giá sàn chi phí cho giá thép.
Trong khi đó, chính quyền Đường Sơn phía Bắc Trung Quốc tăng cường hạn chế vào cuối giờ chiều qua so với cảnh báo ô nhiễm cấp độ II trước đó, yêu cầu ba trong số các nhà máy của họ chỉ giữ một máy thiêu kết hoạt động từ 4 giờ chiều qua và các dự án xây dựng tạm dừng hoạt động từ 6 giờ chiều.
Tại thị trường trong nước, giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn xuống 4,680 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 1 tăng 0.5% lên 4,216 NDT/tấn. Một số nhà máy Trung Quốc giảm giá thép cây xuất xưởng từ 20 đến 30 NDT/tấn. Giao dịch thép cây ở các thành phố lớn đã giảm 30,000 tấn xuống 170,000 tấn.
Giá HRC tại Thượng Hải không đổi ở mức 4,700 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 tăng 0.11% lên 4,450 NDT/tấn. Angang ở miền bắc Trung Quốc đã hạ giá xuất xưởng đối với HRC xuống 300 NDT/tấn cho các đợt giao hàng tháng 12, sau khi Baosteel cắt giảm cùng mức. Giá HRC giao ngay đã mất 1,160 NDT/tấn từ mức đỉnh gần đây là 5,860 NDT/tấn vào ngày 8/10.
Trên thị trường xuất khẩu, tình hình im ắng do cả người bán và người mua đều im lặng sau khi chứng kiến giá nội địa Trung Quốc giảm. Một số thương nhân đã tích cực mời chào giá thầu ở mức 780-785 USD/tấn cfr Việt Nam đối với HRC SS400 của Trung Quốc, tầm 750-755 USD/tấn fob Trung Quốc. Tất cả các mức đó đều thấp hơn nhiều so với mức chào bán chính thức của các nhà máy Trung Quốc là hơn 800 USD/tấn fob Trung Quốc. Có những yêu cầu từ Nam Mỹ, nhưng không ai đưa ra bất kỳ giá thầu nào sau khi nghe chào bán của nhà máy.
Nhìn chung, xu hướng giá vẫn còn dư địa giảm về cuối tháng này vì chi phí than cốc giảm và nhu cầu chậm, làm giảm giá sàn thép. Tuy nhiên, triển vọng về cuối năm vẫn có sự tăng trưởng đan xen, trước các chi phí năng lượng tăng, nhu cầu phục hồi trước năm mới. Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước tăng giảm đan xen, giá sàn là 4.500 và trần là 5.300 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, giá có thể giảm xuống gần 800 USD/tấn cfr Việt Nam cho HRC SAE Trung Quốc trong tháng 11 nhưng đạt tầm 840-860 USD/tấn cfr trong tháng 12.