Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin dự báo thị trường TQ ngày 18/3/2022

Giá thép Trung Quốc tăng trưởng do tâm lý lạc quan vẫn tiếp tục, sau thông báo tuần này từ phó thủ tướng rằng chính phủ sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bằng các biện pháp nhanh chóng.

Trong cuộc họp của Ủy ban Ổn định và Phát triển Tài chính thuộc hội đồng nhà nước, phó thủ tướng Liu He đã kêu gọi tích cực thực hiện các chính sách có lợi cho thị trường. Ông nói, tất cả các chính sách có tác động đáng kể đến thị trường vốn cần được phối hợp với các cơ quan quản lý tài chính để duy trì sự ổn định và nhất quán của các kỳ vọng chính sách.

Dự trữ thép của các thương nhân và nhà máy Trung Quốc giảm khoảng 73,000 tấn trong tuần này, chậm lại so với mức giảm 690,000 tấn vào tuần trước do các vụ Covid-19 gia tăng đã làm tê liệt hoạt động hậu cần và tiêu thụ thép ở một số thành phố. Giá thép và giao dịch cho thấy một số tín hiệu giảm nhẹ vào buổi chiều khi các đại biểu ghi nhận tốc độ giảm chậm của hàng tồn kho.

Tại thị trường giao ngay, giá thép cây tại Thượng Hải tăng 30 NDT/tấn lên 4,900 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 5 tăng 1.74% lên 4,902 NDT/tấn, nhưng giao dịch trên thị trường giao ngay chậm lại sau khi người mua tích cực cung cấp lại vào ngày thứ tư.

Một số thương nhân đã giảm giá chào bán từ 4,910-4,920 NDT/tấn vào buổi sáng xuống 4,890-4,910 NDT/tấn vào buổi chiều để thu hút đơn đặt hàng. Buôn bán thép cây ở các thành phố lớn đã giảm 70,000 tấn xuống 140,000 tấn hôm qua.

Giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải đã tăng 20 NDT/tấn lên 5,050 NDT/tấn vào buổi sáng nhưng đã từ bỏ một số mức tăng và giảm xuống 5,030 NDT/tấn vào buổi chiều. HRC kỳ hạn tháng 5 tăng 1.3% lên 5,054 NDT/tấn. Các nhà giao dịch đã cố gắng tăng giá 20-30 NDT/tấn vào buổi sáng nhưng đã cắt giảm vào buổi chiều do lượng hàng tồn kho giảm trong tuần này.

Trên thị trường xuất khẩu, thị trường đường biển tương đối trầm lắng, hầu như không có thay đổi về giá chào hàng và mức độ khả thi, phù hợp với thị trường nội địa Trung Quốc ổn định. Các nhà máy Trung Quốc đã chào bán thép tấm SS400 ở mức 870-900 USD/tấn fob trong tuần này, với mức giá thấp hơn sẽ bị hạn chế về khả năng đàm phán. Một số nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc duy trì chào giá ở mức 890-895 USD/tấn fob, và các thương nhân lưu ý rằng các nhà máy này đã giữ giá ổn định trong tuần do kỳ vọng có nhiều đơn đặt hàng xuất khẩu.

Thép mạ kẽm nhúng nóng được chào giá 930 USD/tấn fob cho cuộn Zn40g, giảm 20 USD/tấn so với 950 USD/tấn của tuần trước và thép cuộn Zn80g được chào giá 970 USD/tấn fob. Đối với thép cuộn cán nguội, chào giá của các nhà máy ở mức 920-950 USD/tấn fob, với mức khả thi là 910-925 USD/tấn fob.

Tháng 3-tháng 4 là mùa cao điểm tiêu thụ thép của Trung Quốc và các nước Châu Á, cộng với sự gián đoạn nguồn cung và chi phí vận chuyển tăng vọt do chiến tranh sẽ giúp giá cả tăng trưởng. Chính phủ Trung Quốc cũng đã đưa ra các tín hiệu hỗ trợ ngành thép từ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng giá vẫn có biến động tăng giảm do các chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô của chính quyền Trung Quốc và giá cao vấp phải kháng cự từ phía người mua trong khi các ca nhiễm covid gia tăng làm cản trở tiêu thụ và ảnh hưởng tâm lý.

Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước biến động và tăng lên khoảng 4,850-5,500 NDT/tấn tháng tháng 3- tháng 4.

Trên thị trường xuất khẩu, giá biến động chiều hướng tăng. Chào giá HRC Trung Quốc về Việt Nam phổ biến khoảng 900-950 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 3-tháng 4.

Sang tới 2 tháng cuối Q2, đà tăng giá chậm lại và có khả năng điều chỉnh nhẹ khi nguồn cung dần cải thiện sau các hoạt động gia tăng sản xuất toàn cầu và tiêu thụ hạ nhiệt sau khi đã thu mua mạnh trong tháng 3-tháng 4. Phạm vi giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 830-850 USD/tấn cfr.

Yếu tố hỗ trợ:

__Gián đoạn nguồn cung thép từ chiến tranh Nga-Ukraine, đẩy giá thép toàn cầu tăng.

_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế hơn sau cuộc họp lưỡng hội thường niên tháng 3.

_ Cắt giảm sản xuất mới trong tháng 3.

_Chi phí vận chuyển và chi phí nguyên liệu thô tăng do chiến tranh.

_Nhu cầu mạnh vào mùa cao điểm.

Yếu tố áp lực:

_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.

_Dịch bệnh kìm hãm tiêu thụ.