Giá xuất khẩu thép Trung Quốc tiếp tục giảm do cung cấp thấp hơn trong bối cảnh nhu cầu trầm lắng và triển vọng giảm, trong khi giá nội địa Trung Quốc ổn định hơn do thị trường có khả năng dỡ bỏ các đợt khóa cửa.
Chính phủ Thượng Hải cho biết họ đặt mục tiêu bỏ dần các đợt đóng cửa vào tháng 6 miễn là việc lây nhiễm Covid vẫn được kiểm soát. Phản ứng từ thị trường đã bị tắt tiếng trong bối cảnh không chắc chắn rằng việc nới lỏng có thể được thực hiện theo kế hoạch.
Tâm lý thị trường nội địa của Trung Quốc được củng cố do kỳ vọng nhu cầu trở lại sau khi Thượng Hải đặt ra kế hoạch khôi phục hoạt động kinh doanh và công nghiệp từ tháng 6.
Tại thị trường giao ngay, thép cây HRB400 tại Thượng Hải không đổi ở mức 4,870 NDT/tấn. Hoạt động buôn bán thép cây không có dấu hiệu cải thiện rõ ràng khi hầu hết các dự án xây dựng địa phương vẫn tạm dừng. Một số dự án cơ sở hạ tầng lớn hạn chế đã khởi động lại và hoạt động buôn bán thép cây ở Thượng Hải có thể sẽ tiếp tục trầm lắng trước khi các biện pháp cấm vận được dỡ bỏ hoàn toàn.
Giá thép cây giao sau tháng 10 tăng 0.11% lên 4,650 NDT/tấn. Một số nhà máy Trung Quốc đã giảm giá thép cây xuất xưởng 20-50 NDT/tấn trong ngày. Thị trường nổi lên tin đồn về việc Trung Quốc sẽ có các kích thích mới để bán xe chuyên nghiệp ở các khu vực nông thôn, hỗ trợ một chút cho tâm lý HRC.
Giá HRC Q235B tại Thượng Hải giữ nguyên ở mức 4,820 NDT/tấn so với ngày trước và tăng 20 NDT/tấn so với ngày 13/5. HRC kỳ hạn tháng 10 tăng 0.4% lên 4,770 NDT/tấn. Giao dịch giao ngay ở Thượng Hải vẫn chậm, nhưng các nhà giao dịch có xu hướng giữ giá ổn định vì nhu cầu ở hạ nguồn dự kiến sẽ dần trở lại từ tháng 6 và không cần phải giảm giá thêm khi giao dịch giao ngay bị đình trệ.
Trong khi đó, giá đường biển vẫn giảm. Các nhà máy lớn của Trung Quốc đã cắt giảm giá xuất khẩu thép cây từ 10-15 USD/tấn so với tuần trước xuống còn 760-775 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho lô hàng tháng 6 và tháng 7.
Trên thị trường HRC, một nhà máy ở phía đông Trung Quốc đã giảm giá chào bán xuống 10 USD/tấn còn 790 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400, cao hơn nhiều so với mức thị trường khi một số nhà máy lớn khác của Trung Quốc giảm giá chào xuống còn 770-780 USD/tấn fob Trung Quốc.
Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã giảm giá chào xuống còn 745 USD/tấn fob Trung Quốc, trong khi các thương nhân chào giá thép cuộn từ nhà máy này thấp hơn với mức tương đương 730 USD/tấn fob Trung Quốc nhưng không có giá thầu nào.
Thị trường nhìn chung bị bủa vây bởi các yếu tố áp lực, với một số ít yếu tố hỗ trợ đan xen:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế, hỗ trợ ngành thép.
_ Nguồn cung giảm với yêu cầu giữ sản lượng 2022 thấp hơn 2021.
_Chính sách covid-19 nới lỏng khi ca nhiễm giảm.
_ Giá nội địa dự kiến phục hồi nhẹ khi nhu cầu trở lại vào tháng tới.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh, đóng cửa covid-19 hạn chế tiêu thụ.
_Thị trường bước vào mùa mưa cuối Q2.
_Khả năng Chính phủ giảm thuế thép xuất khẩu để hỗ trợ thị trường xuất khẩu.
_Đà tăng giá toàn cầu hạ nhiệt.
_Thị trường bất động sản u ám trong năm nay.
_Đồng NDT mất giá.
Thị trường bất động sản năm nay u ám do nợ xấu, nhu cầu chậm từ các dự án và hậu cần gián đoạn do các ca nhiễm covid-19 tăng đột biến. Đồng NDT mất giá khi Mỹ liên tục tăng lãi suất, giá nguyên liệu thô giảm trước các sức ép từ Chính phủ. Chính phủ Trung Quốc cũng khả năng tăng hoàn thuế xuất khẩu từ tháng 5 tới, để hỗ trợ thị trường xuất khẩu.
Trong khi đó, giá cũng được hỗ trợ phần nào từ các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ như phát hành trái phiếu, giảm lãi suất. Nhu cầu cũng sẽ gia tăng khi các hạn chế dịch được nới lỏng.
Do đó, dự kiến giá theo xu hướng giảm cả ngắn hạn, nhưng cũng có biến động tăng đan xen. Giá thép cây và HRC giao ngay trong nước vào tầm 4,800 NDT/tấn.
Giá tháng 6-tháng 7 cho HRC SAE1006 2.0mm Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 750-770 USD/tấn cfr Việt Nam.