Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin dự báo thị trường TQ ngày 23/3/2022

Tâm lý thị trường thép nội địa của Trung Quốc lung lay giữa lời kêu gọi của Bắc Kinh về việc kích thích kinh tế nhiều hơn và sự lan rộng của các đợt đóng cửa Covid-19 đã khiến nhu cầu và giao hàng bị đình trệ.

Thủ tướng Lý Khắc Cường cho biết Bắc Kinh đang giảm thuế giá trị gia tăng quy mô lớn cho các công ty nhỏ hơn để giúp ổn định nền kinh tế.

Tuy nhiên, thương mại thép đã bị đình trệ ở nhiều khu vực do nhu cầu và dịch vụ hậu cần bị kìm hãm bởi việc khóa cửa Covid-19. Thành phố Qian'an ở tỉnh Hà Bắc cũng rơi vào tình trạng khóa cửa từ ngày 22/3 sau những hạn chế tương tự ở các quận khác trong thành phố Đường Sơn từ ngày 19/3. Một nhà máy Đường Sơn sẽ đại tu lò cao từ ngày 21/3, cắt giảm sản lượng kim loại nóng 8,000 tấn/ngày.

Bộ sinh thái và môi trường Trung Quốc đã khởi động một đợt thanh tra bảo vệ môi trường mới sẽ bao gồm 5 tỉnh trong một tháng, bao gồm các nhà sản xuất thép hàng đầu là Hà Bắc và Giang Tô.

Tại thị trường giao ngay Thượng Hải, HRC Q235B tăng 20 NDT/tấn lên 5,100 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 5 tăng 0.56% lên 5,163 NDT/tấn. Thương mại giao ngay vẫn chậm trong khi tồn kho thép đang tăng ở Thượng Hải. Tỷ suất lợi nhuận của các nhà máy thép đối với HRC đã giảm xuống còn khoảng 200-300 NDT/tấn sau khi giá nguyên liệu thô tăng nhanh. Tuy nhiên, giá nguyên liệu đầu vào có thể bắt đầu giảm khi các nhà máy bắt đầu xem xét việc ngừng bảo trì trong thời gian diễn ra Covid-19.

Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải không đổi ở mức 4,920 NDT/tấn do các thương nhân chào mua ổn định ở mức 4,920-4,930 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 5 giảm 0.16% xuống 4,918 NDT/tấn. Thương mại giao ngay ở Thượng Hải vẫn trầm lắng do việc đóng cửa khu vực làm giảm tiêu thụ thép. Thương mại thép cây tại các thành phố lớn trong nước đã giảm 10,000 tấn xuống còn 127,000 tấn hôm thứ ba so với thứ hai, những người tham gia thị trường cho biết. Tuy nhiên, xu hướng giảm giá được hỗ trợ hạn chế bởi tỷ suất lợi nhuận thấp của các nhà máy thép cây.

Trên thị trường xuất khẩu, các nhà sản xuất lớn của Trung Quốc đã giữ mức chào hàng và mức khả thi ở mức 820-850 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết do giá thép toàn cầu cao hơn.

Đối với cuộn cán nóng, hầu hết các nhà máy lớn của Trung Quốc đã nâng giá chào bán hoặc mức khả thi lên trên 860 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC SS400 do giá thép trong nước và quốc tế ổn định. Nhưng một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc vẫn sẵn sàng nhận đơn đặt hàng với giá khoảng 830 USD/tấn fob Trung Quốc và đã bán HRC SS400 với giá 855 USD/tấn cfr cho Hàn Quốc vào tuần trước, không có thêm thông tin chi tiết nào được xác nhận.

Tháng 4 là mùa cao điểm tiêu thụ thép của Trung Quốc và các nước Châu Á, cộng với sự gián đoạn nguồn cung và chi phí vận chuyển tăng vọt do chiến tranh sẽ giúp giá cả tăng trưởng. Chính phủ Trung Quốc cũng đã đưa ra các tín hiệu hỗ trợ ngành thép từ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng giá vẫn có biến động tăng giảm do các chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô của chính quyền Trung Quốc và giá cao vấp phải kháng cự từ phía người mua trong khi các ca nhiễm covid gia tăng làm cản trở tiêu thụ và ảnh hưởng tâm lý.

Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước biến động và tăng lên khoảng 4,850-5,300 NDT/tấn tháng tháng 3- tháng 4.

Trên thị trường xuất khẩu, giá biến động chiều hướng tăng. Chào giá HRC Trung Quốc về Việt Nam phổ biến khoảng 910-970 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 4.

Sang tới 2 tháng cuối Q2, giá khả năng điều chỉnh giảm khi nguồn cung dần cải thiện sau các hoạt động gia tăng sản xuất toàn cầu và tiêu thụ hạ nhiệt cộng với tình hình dịch covid lan rộng hơn. Phạm vi giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 830-850 USD/tấn cfr.

Yếu tố hỗ trợ:

__Gián đoạn nguồn cung thép từ chiến tranh Nga-Ukraine, đẩy giá thép toàn cầu tăng.

_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế hơn sau cuộc họp lưỡng hội thường niên tháng 3.

_ Cắt giảm sản xuất mới trong tháng 3.

_Chi phí vận chuyển và chi phí nguyên liệu thô tăng do chiến tranh.

_Nhu cầu mạnh vào mùa cao điểm.

Yếu tố áp lực:

_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.

_Dịch bệnh kìm hãm tiêu thụ.