Giá thép Trung Quốc tiếp tục giảm khi nhu cầu tiêu thụ chậm chạp. Một số doanh nghiệp Trung Quốc đang gặp khó khăn trong việc đảm bảo dịch vụ giao hàng bằng xe tải với nhiều biện pháp đóng cửa khác nhau giữa các khu vực. Xuất khẩu không lấp đầy khoảng trống cho doanh thu nội địa. Các nhà máy lớn im lặng vì chào bán- chào mua rộng, và sự chậm trễ ở cảng đang cản trở việc thực hiện các giao dịch trước đó.
Giá HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn xuống 4,940 NDT/tấn. Giá HRC kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch Kỳ hạn Thượng Hải giảm 1.17% xuống 4,907 NDT/tấn. Giao dịch giao ngay bị đình trệ trong bối cảnh các biện pháp đóng cửa được duy trì và các nhà giao dịch tỏ ra miễn cưỡng giảm giá thêm khi nhu cầu không giảm.
Giá HRC tại Thượng Hải đã mất 310 NDT/tấn, tương đương 5.9% trong tháng 4, nhưng tốc độ giảm có thể chậm lại do giá đã xuống ngang giá thép cây. Tương tự, giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn xuống 4,940 NDT/tấn với việc các thương nhân cắt giảm giá chào bán để thúc đẩy bán hàng.
Giá thép cây giao sau tháng 10 giảm 0.7% xuống 4,829 NDT/tấn. Khối lượng giao ngay có một số dấu hiệu cải thiện khi xu hướng giảm đang chậm lại. Sự phục hồi của giá phôi cũng củng cố tâm lý thị trường ở một mức độ nào đó. Thương mại thép cây ở các thành phố lớn trong nước đã tăng 40,000 tấn lên 180,000 tấn hôm qua so với ngày trước.
Giá đường biển cũng tiếp tục giảm do áp lực từ nhu cầu thấp. Giá thép cây từ các nhà máy Trung Quốc ở mức 810-830 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho lô hàng tháng 6.
Trên thị trường thép cuộn cán nóng, giá chào bán từ các thương nhân giảm xuống còn 780-825 USD/tấn fob Trung Quốc. Hầu hết những người mua đường biển cũng im lặng vì lo ngại giá sẽ tiếp tục giảm trong những ngày tiếp theo, đặc biệt là khi nhu cầu nội địa của Trung Quốc bị đình trệ do đóng cửa.
Một nhà máy lớn của Trung Quốc đã bán khoảng 5,000 tấn thép SAE1006 với giá 870 USD/tấn cfr cho Việt Nam vào tuần trước, cho lô hàng vào tháng 6. Các thương nhân giảm giá chào bán thêm xuống còn 840-850 USD/tấn cfr Việt Nam. Tuy nhiên, những lời chào mời không thu hút vì người mua Việt Nam thích chờ đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn.
Thị trường nhìn chung đang chịu nhiều yếu tố áp lực hơn hỗ trợ, khi thị trường bất động sản năm nay u ám do nợ xấu, nhu cầu chậm từ các dự án và hậu cần gián đoạn do các ca nhiễm covid-19 tăng đột biến. Đồng NDT mất giá khi Mỹ liên tục tăng lãi suất, giá nguyên liệu thô giảm trước các sức ép từ Chính phủ. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng phát tín hiệu về việc giảm thuế xuất khẩu để hỗ trợ ngành thép.
Trong khi đó, giá cũng được hỗ trợ phần nào từ các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ như phát hành trái phiếu, giảm lãi suất. Nhu cầu cũng sẽ gia tăng khi các hạn chế dịch được nới lỏng.
Do đó, dự kiến giá theo xu hướng biến động giảm trong 2 tháng tới. Giá cuối tháng 6 cho HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam quanh mức 850 USD/tấn cfr.
Yếu tố hỗ trợ:
_Gián đoạn nguồn cung thép từ chiến tranh Nga-Ukraine.
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế, hỗ trợ ngành thép.
_ Nguồn cung giảm do các biện pháp kiểm soát dịch, giảm khí thải cacbon.
_Chi phí vận chuyển và chi phí nguyên liệu thô tăng do chiến tranh.
_Nhu cầu mạnh vào mùa cao điểm.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh, đóng cửa covid-19 hạn chế tiêu thụ.
_Thị trường bước vào mùa mưa cuối Q2.
_Khả năng Chính phủ giảm thuế thép xuất khẩu để hỗ trợ thị trường xuất khẩu.
_Đà tăng giá toàn cầu hạ nhiệt.
_Thị trường bất động sản u ám trong năm nay.
_Đồng NDT mất giá.