Giá thép Trung Quốc tiếp tục xu hướng tăng, nhờ hoạt động giao dịch cải thiện và thị trường lạc quan trước các cắt giảm sản xuất để ngăn chặn sự lây lan covid-19.
Một nhà sản xuất thép lớn ở miền đông Trung Quốc đã lên kế hoạch cắt giảm nguồn cung thép tấm dày cho các hợp đồng trong nước xuống 0-20p% cho đợt giao hàng vào tháng 4. Một nhà máy xác nhận nguồn cung giảm, thêm rằng việc bảo trì trong tháng 4 và lượng đặt trước quá nhiều với giá cao hơn từ những người mua không ký hợp đồng đã làm giảm nguồn cung cho những người mua có hợp đồng.
Có tin về một nhà máy ở đông bắc Trung Quốc đang cắt hoàn toàn nguồn cung cấp thép tấm cho những người mua có hợp đồng ở miền đông Trung Quốc trong đợt giao hàng vào tháng 4 để đại tu một trong các lò cao của họ trong 20 ngày kể từ ngày 24/3, cắt giảm nguồn cung kim loại nóng 8,000 tấn/ngày.
Việc Trung Quốc gia tăng xuất khẩu phôi tấm sang Châu Âu cũng làm thắt chặt nguồn cung thị trường nội địa. Một nhà máy ở miền đông Trung Quốc được cho là đã bán 100,000 tấn phôi tấm với giá 880 USD/tấn fob Trung Quốc sang Châu Âu trong tuần này, hoặc ở mức 1,030 USD/tấn cfr. Một nhà máy khác ở miền Bắc Trung Quốc đã bán 40,000 tấn phôi tấm với giá 860 USD/tấn fob vào Ý. Mức này cao hơn giá HRC xuất khẩu của Trung Quốc, kích thích nhiều nhà máy, đặc biệt là các nhà máy quy mô lớn, nhận đơn đặt hàng từ Châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ.
Không có thuế chống bán phá giá đối với xuất khẩu phôi tấm của Trung Quốc sang Châu Âu, khiến giá của nó cạnh tranh so với giá xuất khẩu HRC của Trung Quốc vì loại sau này phải chịu thuế chống bán phá giá khoảng 30%, là lý do đằng sau khiến việc xuất khẩu phôi tấm của Trung Quốc đang tăng lên.
Giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 50 NDT/tấn lên 5,170 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 5 tăng 1.73% lên 5,282 NDT/tấn. Giao dịch giao ngay sôi động và một số thương nhân đã nâng giá lên 5,180-5,200 NDT/tấn vào cuối buổi chiều, trong khi giao dịch chậm lại sau khi giá tăng.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải không thay đổi ở mức 4,930 NDT/tấn, với việc các thương nhân giữ nguyên giá chào bán để kích cầu. Giá thép cây giao sau tháng 5 tăng 0.74% lên 5,013 NDT/tấn. Nhìn chung, giao dịch thị trường có một số cải thiện so với ngày trước. Thương mại thép cây ở các thành phố lớn trong nước đã tăng 40,000 tấn lên 180,000 tấn hôm thứ sáu so với thứ năm.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn lên 4,930 NDT/tấn, với tâm lý cải thiện so với ngày trước. Giá thép cây giao sau tháng 5 tăng 0.39% lên 4,949 NDT/tấn. Các nhà giao dịch đã tăng giá chào hàng lên 4,930-4,940 NDT/tấn để kiểm tra phản ứng của người mua trên thị trường giao ngay.
Trên thị trường xuất khẩu, giá chào bán thép cây thấp nhất từ các nhà máy Trung Quốc là 820 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Các giao dịch xuất khẩu khó đạt được vì mức chênh lệch giá thầu rộng rãi.
Đối với HRC, các thương nhân đã nâng giá chào HRC SS400 do một nhà máy phía Bắc Trung Quốc sản xuất lên trên 870 USD/tấn cfr Việt Nam sau khi bán được khoảng 100,000 tấn cuộn ở mức 865-870 USD/tấn cfr cho Việt Nam trong tuần này.
Chào bán SAE1006 của Trung Quốc đạt 940 USD/tấn cfr Việt Nam, so với mức giá cao nhất là 925 USD/tấn cfr một ngày trước đó. Những người mua Việt Nam im lặng vì họ không có cơn sốt mua lại đối với những nguồn cung dồi dào.
Tháng 4 là mùa cao điểm tiêu thụ thép của Trung Quốc và các nước Châu Á, cộng với sự gián đoạn nguồn cung và chi phí vận chuyển tăng vọt do chiến tranh sẽ giúp giá cả tăng trưởng. Chính phủ Trung Quốc cũng đã đưa ra các tín hiệu hỗ trợ ngành thép từ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng giá vẫn có biến động tăng giảm do các chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô của chính quyền Trung Quốc và giá cao vấp phải kháng cự từ phía người mua trong khi các ca nhiễm covid gia tăng làm cản trở tiêu thụ và ảnh hưởng tâm lý.
Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước biến động và tăng lên khoảng 4,850-5,300 NDT/tấn tháng 4.
Trên thị trường xuất khẩu, giá biến động chiều hướng tăng. Chào giá HRC Trung Quốc về Việt Nam phổ biến khoảng 910-970 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 4.
Sang tới tháng 5, giá khả năng điều chỉnh giảm khi nguồn cung dần cải thiện sau các hoạt động gia tăng sản xuất toàn cầu và tiêu thụ hạ nhiệt cộng với tình hình dịch covid lan rộng hơn. Phạm vi giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 830-850 USD/tấn cfr. Giá dự kiến chưa áp dụng chính sách thuế mới.
Yếu tố hỗ trợ:
__Gián đoạn nguồn cung thép từ chiến tranh Nga-Ukraine, đẩy giá thép toàn cầu tăng.
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế hơn sau cuộc họp lưỡng hội thường niên tháng 3.
_ Cắt giảm sản xuất mới trong tháng 3.
_Chi phí vận chuyển và chi phí nguyên liệu thô tăng do chiến tranh.
_Nhu cầu mạnh vào mùa cao điểm.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh kìm hãm tiêu thụ.