Thị trường thép nội địa của Trung Quốc tăng trưởng, nhưng thị trường sản phẩm đường biển đã giảm sau khi các nhà cung cấp Châu Á giảm giá.
Thị trường giao ngay
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải tăng 30 NDT/tấn lên 4,260 NDT/tấn với tâm lý được cải thiện. Giá thép cây giao sau tháng 10 tăng 1.14% lên 4,274 NDT/tấn. Một số nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã tăng giá xuất xưởng thép cây lên 10-20 NDT/tấn do giá phôi thép cao hơn.
Giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 60 NDT/tấn lên 4,380 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 10 tăng 1.24% lên 4,339 NDT/tấn. Thị trường giao ngay không sôi động do nhu cầu thép yếu và người mua tỏ ra ít quan tâm đến việc đặt hàng.
Thị trường xuất khẩu
Trên thị trường xuất khẩu, một nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã giữ giá xuất khẩu thép cây không đổi ở mức 710 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết sau khi giảm giá 60 USD/tấn vào tuần trước so với mức giữa tháng 6.
Đối với thép cuộn, một số thương nhân đã cắt giảm giá xuống còn 692 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn SAE1006 của Trung Quốc và sẵn sàng nhận đơn đặt hàng ở mức 690 USD/tấn cfr Việt Nam. Nhưng tất cả những chào bán đó đều không thể gây ra bất kỳ động thái mua nào do người mua Việt Nam dự đoán giá sẽ sớm giảm hơn nữa trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.
Dự kiến xu hướng giá cả sẽ còn giảm do dịch covid tăng trở lại sau khi nới lỏng, sản lượng thép gia tăng gây sức ép giá, điều kiện thời tiết nắng nóng mưa nhiều từ cuối Q2 làm nhu cầu chậm. Thị trường bất động sản u ám năm nay cũng làm lu mờ triển vọng nhu cầu.
Tuy nhiên, giá cũng được hỗ trợ bởi giá giảm nhanh khiến các nhà máy thua lỗ buộc họ quay lại kháng cự. Nhu cầu quay trở lại sau khi Chính phủ nới lỏng các hạn chế covid, các chính sách kích thích, giá nguyên liệu thô tăng sau khi sức mua im ắng trong tháng 4-tháng 5, và cắt giảm sản xuất. Do đó, đà giảm giá có biến động tăng nhẹ đan xen trong tháng 7-tháng 8.
Giá HRC SAE1006 2.0mm Trung Quốc về Việt Nam vào khoảng 670-700 USD/tấn cfr Việt Nam trong tháng 8.