Các nhà máy Trung Quốc tăng giá xuất khẩu, nhưng giá thép cuộn nội địa của Trung Quốc giảm do kỳ vọng rằng việc khóa cửa trung tâm sản xuất thép Đường Sơn sẽ được dỡ bỏ.
Quận Liêu Ninh ở Đường Sơn đã đình chỉ các cuộc thử nghiệm Covid-19 từ hôm qua và các hạn chế đối với việc di chuyển của người dân đã được nới lỏng, đặt ra kỳ vọng rằng thành phố Đường Sơn cũng sẽ dỡ bỏ các biện pháp khóa cửa. Ủy ban Y tế tỉnh cho biết thành phố Cangzhou ở tỉnh Hà Bắc cũng đã đổi loại thành nguy cơ thấp từ hôm qua.
Các cuộc đàm phán về việc tái khởi động các ngành công nghiệp chủ chốt tại Đường Sơn để hỗ trợ nền kinh tế cũng xuất hiện. Sản lượng của các nhà máy thép dự kiến sẽ phục hồi dần sau khi các biện pháp khóa cửa được dỡ bỏ và giảm bớt nguồn cung thép cuộn bị thắt chặt cũng như tác động lên giá, vì các nhà máy địa phương chủ yếu là sản xuất dầu.
Giá HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 30 NDT/tấn xuống 5,170 NDT/tấn. Giá HRC kỳ hạn tháng 5 giảm 0.72% xuống 5,255 NDT/tấn. Triển vọng của HRC bị giảm sút do kỳ vọng rằng việc khóa cửa tại Đường Sơn sẽ sớm được dỡ bỏ. Một số thương nhân giữ giá ổn định ở mức 5,200 NDT/tấn do triển vọng nhu cầu tích cực.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn lên 4,960 NDT/tấn trong bối cảnh giá giao sau tăng. Hợp đồng thép cây giao sau chuyển từ hợp đồng tháng 5 sang tháng 10. Giá thép cây giao sau tháng 10 tăng 0.26% lên 5,012 NDT/tấn. Người dùng cuối không hoạt động và chỉ một số công ty thương mại đặt hàng. Những người tham gia vẫn lạc quan về nhu cầu và tin rằng tỷ suất lợi nhuận biên của các doanh nghiệp sẽ bị hạn chế xuống. Các nhà máy thép bằng lò điện hồ quang đang hoạt động bị lỗ nhẹ do giá phế liệu sắt cao.
Trên thị trường xuất khẩu, giá chào hàng của các nhà máy ổn định ở mức 830-850 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Thanh khoản xuất khẩu rất thấp, nhưng các doanh nghiệp không sẵn sàng cắt giảm các đề nghị bán hàng vì họ kỳ vọng thị trường nội địa tăng do kỳ vọng nhu cầu phục hồi.
Đối với HRC, một nhà máy lớn ở phía đông bắc Trung Quốc đã đưa ra chào bán sau khoảng cách hai tuần, nâng giá thêm 10 USD/tấn lên 910 USD/tấn fob Trung Quốc đối với SS400.
Một nhà máy ở Bắc Trung Quốc cũng chào bán ở mức tương tự, nhưng cả hai đều không thu được bất kỳ giá thầu nào do hầu hết những người mua đường biển thận trọng theo xu hướng tăng. Chỉ một số khách hàng từ Trung Đông có thể theo dõi đà tăng giá xuất khẩu của Trung Quốc.
Người bán cũng đã nâng giá chào bán thép cuộn cấp SAE1006 của Trung Quốc lên khoảng 5 USD/tấn lên 920-925 USD/tấn cfr Việt Nam, với giá thầu ở mức 910-915 USD/tấn cfr Việt Nam. Sự chênh lệch rộng rãi giữa chào hàng và giá thầu không có khả năng xảy ra giao dịch.
Tháng 4 là mùa cao điểm tiêu thụ thép của Trung Quốc và các nước Châu Á, cộng với sự gián đoạn nguồn cung và chi phí vận chuyển tăng vọt do chiến tranh sẽ giúp giá cả tăng trưởng. Chính phủ Trung Quốc cũng đã đưa ra các tín hiệu hỗ trợ ngành thép từ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng giá vẫn có biến động tăng giảm do các chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô của chính quyền Trung Quốc và giá cao vấp phải kháng cự từ phía người mua trong khi các ca nhiễm covid gia tăng làm cản trở tiêu thụ và ảnh hưởng tâm lý.
Chính phủ Trung Quốc cũng phát tín hiệu về việc giảm thuế để hỗ trợ ngành thép từ tháng 4. Việc giảm thuế cũng sẽ cản trở đà tăng giá thép.
Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước biến động và tăng lên khoảng 4,850-5,300 NDT/tấn tháng 4.
Trên thị trường xuất khẩu, giá biến động chiều hướng tăng. Chào giá HRC Trung Quốc về Việt Nam phổ biến khoảng 910-970 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 4.
Sang tới tháng 5, giá khả năng điều chỉnh giảm khi nguồn cung dần cải thiện sau các hoạt động gia tăng sản xuất toàn cầu và tiêu thụ hạ nhiệt cộng với tình hình dịch covid lan rộng hơn. Phạm vi giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 830-850 USD/tấn cfr. Giá dự kiến chưa áp dụng chính sách thuế mới.
Yếu tố hỗ trợ:
__Gián đoạn nguồn cung thép từ chiến tranh Nga-Ukraine, đẩy giá thép toàn cầu tăng.
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế hơn sau cuộc họp lưỡng hội thường niên tháng 3.
_ Cắt giảm sản xuất mới trong tháng 3.
_Chi phí vận chuyển và chi phí nguyên liệu thô tăng do chiến tranh.
_Nhu cầu mạnh vào mùa cao điểm.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh kìm hãm tiêu thụ.