Thị trường thép Trung Quốc chững lại do chỉ số kinh tế yếu đè nặng tâm lý thị trường và gia tăng bất ổn nhu cầu thép cuối năm. Tuy nhiên, chi phí nguyên liệu thô cao vẫn là điểm tựa vững chắc cho giá thép không thể giảm sâu nữa.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Chỉ số quản lý mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Trung Quốc giảm 0.7 điểm từ tháng 9 xuống 49.5 trong tháng 10, mức giảm đầu tiên kể từ tháng 5 năm nay. Điều này đã đè nặng tâm lý thị trường thép, kéo giá giảm.
Thép cây giao ngay tại Thượng Hải không đổi ở mức 3,740 NDT/tấn (511 USD/tấn) vào ngày 31/10. Giá thép cây kỳ hạn tháng 1 tăng 0.21% lên 3,733 NDT/tấn.
Các công ty thương mại tăng giá chào thanh cốt thép lên 3,740-3,780 NDT/tấn. Nhưng người mua từ chối những chào bán cao hơn vì họ không mong đợi giá sẽ duy trì xu hướng tăng sau đợt tăng giá gần đây. Một số nhà sản xuất tiếp tục tăng giá xuất xưởng thanh cốt thép thêm 20-30 NDT/tấn nhưng những người tham gia nhận thấy ít sự hỗ trợ hơn từ chi phí nguyên liệu thô. Các nhà máy thép ở Sơn Đông và Hà Bắc yêu cầu các nhà máy luyện cốc giảm giá than cốc xuống 100-110 NDT/tấn từ ngày 31/10.
Thép công nghiệp
Giá giao ngay HRC tại Thượng Hải không đổi ở mức 3,840 NDT/tấn (524.81 USD/tấn) vào ngày 31/10. Hợp đồng tương lai HRC tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng 0.08% lên 3,849 NDT/tấn.
Một số nhà máy thép ở tỉnh Hà Bắc và Sơn Đông đã hạ giá mua than cốc luyện kim 100 NDT/tấn từ ngày 31/10.
Thị trường xuất khẩu
Một số thương nhân đã cắt giảm giá chào SS400 của Trung Quốc khoảng 2-3 USD/tấn xuống còn 542 USD/tấn cfr Việt Nam để thu hút mua, thu về khoảng 532 USD/tấn fob Trung Quốc. Một số giao dịch được thực hiện ở mức giá 535 USD/tấn cfr Việt Nam cho SS400 của Trung Quốc.
Một nhà máy lớn của Trung Quốc đã bán HRC ở mức 550 USD/tấn fob Trung Quốc vào tuần trước mà không có thông tin chi tiết, nhưng nhà máy này không còn sẵn sàng nhận đơn đặt hàng ở mức đó trong tuần này sau khi người bán tăng giá chào vào thứ Hai.
Một số người mua Thổ Nhĩ Kỳ có thể chấp nhận mức giá 540 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC Trung Quốc loại đặc biệt, trong khi hầu hết những người khác không thể chấp nhận mức giá đặc biệt như vậy đối với HRC SS400 thương phẩm.
Các thương nhân và nhà máy giữ giá chào không đổi ở mức 560-570 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn SAE1006 của Trung Quốc và 575 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn Nhật Bản. Những người tham gia cho biết người mua Việt Nam ngần ngại đặt hàng hoặc trả giá vì họ dự đoán giá sẽ sớm giảm do sức mua trong nước chậm lại.
Triển vọng
Thị trường yếu cuối năm khi bước vào mùa mưa, gây bất lợi cho ngành xây dựng, kéo giá giao ngay giảm.
Rủi ro từ phía cung vẫn tiếp diễn vì các cắt giảm sản xuất còn nhỏ lẻ. Trong năm nay chưa có các tin đồn về cắt giảm sản xuất cuối năm quy mô rộng như những năm ngoái, khiến thị trường hoài nghi về áp lực cung -cầu tiếp diễn tới cuối năm.
Dữ liệu kinh tế yếu và các kích thích cuối năm dự kiến không mạnh. Đầu tư vào lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc đã giảm 9.1% trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 9, chậm hơn so với mức giảm 8.8% trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 8, trong khi số lượng dự án khởi nghiệp mới theo khu vực giảm 23.4% trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 9, cho thấy sự cải thiện nhẹ so với Dữ liệu của NBS cho thấy mức giảm 24.4% trong tháng 1-tháng 8. Chỉ số quản lý mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Trung Quốc giảm 0.7 điểm từ tháng 9 xuống 49.5 trong tháng 10, mức giảm đầu tiên kể từ tháng 5 năm nay.
Yếu tố hỗ trợ giá cả chính dự kiến là chi phí nguyên liệu thô tăng khiến các nhà máy thua lỗ. Chi phí quặng sắt và than cốc tăng mạnh, sẽ làm điểm tựa cho giá thép. Ngoài ra, do giá thép thua lỗ, với mức lỗ khoảng 100 NDT/tấn cho thép cây nên các nhà máy sẽ hạn chế giảm giá và tìm cách tăng lại để kiếm lời.
Do đó, giá thép kỳ vọng biến động yếu trong tháng 11 và sự phục hồi nhỏ có thể đến vào tháng 12 hoặc muộn hơn vào đầu năm 2024 với kỳ vọng kinh tế vĩ mô tốt hơn. Phạm vi biến động tầm 30-40 USD/tấn, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam dao động quanh 580 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 1/2024.