Thị trường thép nội địa của Trung Quốc phục hồi do lĩnh vực sản xuất tiếp tục mở rộng trong tháng này và làm dấy lên hy vọng rằng nhu cầu sẽ cải thiện hơn nữa vào tháng tới.
Bất chấp sự sụt giảm nhẹ 0.7 điểm so với tháng trước, dữ liệu PMI tháng 3 cho thấy nhu cầu thép từ ngành sản xuất vẫn rất mạnh, đạt 51.9. Chỉ số này cao thứ hai trong hai năm qua, sau 52.6 vào tháng 2 và đánh dấu tháng thứ ba liên tiếp trên 50.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Giá thép cây giao ngay tại Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn (1.45 USD/tấn) lên 4,210 NDT/tấn.
Giá thanh cốt thép kỳ hạn tháng 5 tăng 0.24% lên 4,161 NDT/tấn.
Các nhà máy lớn ở phía đông Trung Quốc đã tăng giá xuất xưởng thép cây thêm 10-20 NDT/tấn vào ngày 31/3, kỳ vọng nhu cầu thép xây dựng sẽ mạnh hơn vào tháng 4.
Một nhà máy phía bắc Trung Quốc sẽ nối lại hai dây chuyền cán thép cây từ ngày 1/4, với sản lượng thép xây dựng hàng ngày trở lại mức bình thường là 7,000 tấn.
Nhìn chung, các rủi ro vĩ mô cơ bản đã được giải tỏa, hiện tại hầu hết các thương nhân đều lạc quan về nhu cầu trong tháng 4 và hoạt động tổng thể là tích cực, dự kiến giá thép xây dựng ở Hàng Châu sẽ tăng ổn định trong tháng 4.
Thép công nghiệp
Giá giao ngay HRC tại Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn (1.46 USD/tấn) lên 4,330 NDT/tấn vào ngày 31/3.
HRC kỳ hạn tháng 5 tăng 0.54% lên 4,292 NDT/tấn. Giao dịch giao ngay chậm lại trước cuối tuần sau khi người mua bổ sung hàng dự trữ vào đầu tuần.
Thị trường xuất khẩu
Giá xuất khẩu của Trung Quốc đối với HRC SS400 từ các nhà máy không đổi ở mức 660-680 USD/tấn, trong khi giá chào của thương nhân ở mức 635-640 USD/tấn. Giá chào vào Việt Nam không đổi ở mức 635-640 USD/tấn cfr, thu hút lượng mua hạn chế ở mức 610 USD/tấn cfr.
Các thương nhân và nhà máy không có tâm trạng thúc đẩy các giao dịch mới vào ngày làm việc cuối cùng của tháng. Nhu cầu và sản lượng thép của Trung Quốc dự kiến sẽ ổn định trong tháng 4. Điều đó có nghĩa là các nhà máy thép Trung Quốc khó có thể giảm giá xuất khẩu đáng kể do mức ổn định trong nước, mặc dù nhu cầu xuất khẩu yếu.
Biên độ chào mua ở Việt Nam rất rộng. Giá chào HRC loại SAE1006 của Trung Quốc không đổi ở mức 670-680 USD/tấn cfr Việt Nam. Không có chào hàng HRC từ các nguồn gốc Châu Á khác do các nhà cung cấp từ Nhật Bản và Đài Loan đang tập trung vào thị trường Châu Âu nơi có giá cao hơn. Một nhà máy thép ở Đài Loan đã chào HRC ở mức 770 USD/tấn fob cho người mua Châu Âu, trong khi các nhà cung cấp Nhật Bản cũng chào ở mức giá tương tự. Người mua Việt Nam không sẵn sàng xem xét mức giá trên 650 USD/tấn cfr đối với SAE1006.
Triển vọng
Giá cả dự kiến phục hồi trong Q2 khi vào mùa cao điểm. Song xu hướng giá cũng biến động, kìm hãm mức tăng, lý do:
Yếu tố áp lực:
_ Không có chính sách kích thích mới nào cho ngành bất động sản, trọng tâm vẫn là rủi ro tài chính cho các công ty bất động sản.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga - Ukraina.
_ Nhu cầu chậm hơn kỳ vọng.
_ Cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc sẽ tăng cường kiểm tra hành vi thao túng giá và tích trữ bất hợp pháp nguyên liệu thô.
Yếu tố hỗ trợ:
_Nguồn cung giảm từ các chính sách cắt giảm sản xuất.
_Chi phí đầu vào cao từ quặng sắt, than đá, năng lượng.
_Yếu tố vĩ mô tốt.
_Xu hướng tăng giá toàn cầu.
_Nhu cầu phục hồi vào Q2.
Nhu cầu phục hồi cộng với chi phí nguyên liệu thô cao sẽ hỗ trợ giá cả trong Q2, nhưng kèm biến động giảm đan xen khi nhu cầu chậm phục hồi, và các kiểm soát giá nguyên liệu thô gây áp lực. Phạm vi biến động dự kiến vẫn hạn chế vào tầm 40-50 USD/tấn trong 2 tháng tới, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam tăng lên khoảng 730 USD/tấn cfr Việt Nam trong tháng 4-tháng 5.