Giá thép nội địa Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng với sức mua phục hồi nhẹ, tồn kho giảm nhanh hơn, hỗ trợ giá xuất khẩu dù nhu cầu đường biển chậm chạp.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn (2.7 USD/tấn) lên 3,660 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 1 tăng 0.75% lên 3,504 NDT/tấn.
Các thương nhân tăng chào hàng lên 3,650-3,700 NDT/tấn do tồn kho thép cây giảm.
Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất đã giảm 330,000 tấn trong tuần này, so với mức giảm 230,000 tấn của tuần trước. Giao dịch trên thị trường giao ngay cho thấy một số tín hiệu chậm lại. Thương mại thép cây tại các thành phố lớn trong nước đã giảm 40,000 tấn từ ngày 1/11 xuống còn 156,000 tấn vào ngày 3/11.
Nhìn chung giá cả đã tăng nhẹ dựa vào nhu cầu phục hồi phần nào. Tuy nhiên, sự nhiệt tình của thị trường vẫn yếu. Việc giải phóng nhu cầu ngắn hạn từ thị trường nhà ở là yếu. Vậy nên giá cả chỉ có thể nhích nhẹ từ tư.
Thép công nghiệp
Tồn kho thép cuộn của các thương nhân và nhà máy ở Trung Quốc trong tuần này giảm khoảng 100,000 tấn, nhanh hơn mức giảm 90,000 tấn của tuần trước, trong khi sản lượng thép cuộn của các nhà máy giảm hơn 30,000 tấn trong tuần này.
Giá HRC Q235B giao ngay tại Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn (2.7 USD/tấn) lên 3,720 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 tăng 0.62% lên 3,576 NDT/tấn.
Tâm lý thị trường chủ yếu được hỗ trợ từ tồn kho giảm, song các thương nhân chỉ bổ sung hàng tồn kho theo yêu cầu, không khí giao dịch trên thị trường chỉ ở mức chấp nhận được, khách hàng hạ lưu còn thận trọng hơn trong việc mua hàng. Cung và cầu HRC đều yếu do hàng tồn kho vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Các nhà kinh doanh không kỳ vọng giá thép sẽ tăng nhiều trong tháng này do thiếu các động lực kinh tế vĩ mô.
Thị trường cuộn cán nguội giao ngay cũng tăng nhẹ nhưng việc giải phóng nhu cầu hạ nguồn bị hạn chế, và hiệu suất giao dịch ở mức trung bình.
Thị trường xuất khẩu
Trên thị trường xuất khẩu, ciá thép cây nội địa Trung Quốc tăng trở lại gần đây, nhưng các nhà máy cho biết họ khó có thể tăng giá xuất khẩu do nhu cầu đường biển yếu và đồng nhân dân tệ của Trung Quốc giảm. Tỷ giá tương đương trung tâm của đồng Nhân dân tệ so với USD đã giảm xuống mức 7.247 vào ngày 3/11, chạm mức thấp nhất kể từ tháng 1/2008.
Đối với HRC SS400, các nhà máy lớn của Trung Quốc đưa ra mức giá không đổi ở mức 520-530 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC SS400, trong khi một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc đã nâng giá bán lên 516 USD/tấn fob Trung Quốc sau khi giá nội địa tăng.
Các nhà giao dịch đã miễn cưỡng nhận các đơn đặt hàng dưới 500 USD/tấn cfr Việt Nam, cao hơn khoảng 5 USD/tấn so với ngày hôm trước.
HRC của Trung Quốc đã được chào bán ở mức 540- 550 USD/tấn cfr Ấn Độ mà không có chi tiết về thông số kỹ thuật, khoảng 500-520 USD/tấn fob Trung Quốc. Tuy nhiên, một số người tham gia Trung Quốc tỏ ra nghi ngờ về những mức đó, nói thêm rằng các nhà máy lớn của Trung Quốc có thể xuất khẩu sang Ấn Độ đã yêu cầu giá bán ở mức và trên 530 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400.
Đối với cuộn cán nguội, các nhà máy Trung Quốc đã hạ giá chào bán thép cuộn cán nguội xuống 10-15 USD/tấn so với tuần trước, còn 580-595 USD/tấn fob. Một số nhà máy tư nhân sẵn sàng bán ở mức 560-570 USD/tấn fob. Giá của các nhà máy quốc doanh cao hơn một chút ở mức 570-580 USD/tấn fob.
Giá chào xuất khẩu đối với thép tấm loại SS400 ở mức 555-560 USD/tấn fob Trung Quốc trong tuần này. Một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc đã bán một số tấm loại A36 với giá 560 USD/tấn fob cho các thương nhân bán khống trong những tuần trước và giá này chỉ dành cho người mua Châu Á.
Giá thép mạ kẽm nhúng nóng cũng giảm trong tuần này, với thép cuộn phủ Zn80g được chào bán ở mức 630 USD/tấn fob Trung Quốc và thép cuộn mạ Zn120g ở mức 640 USD/tấn fob Trung Quốc. Giá cả có thể thỏa thuận do nhu cầu yếu và các nhà máy thép thiếu đơn đặt hàng.
Triển vọng cuối năm
Nhìn chung, triển vọng thị trường vẫn ảm đạm cuối năm, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng trầm trọng và dự kiến còn tệ hơn vào năm sau.
Yếu tố áp lực
_Kinh tế vĩ mô suy yếu.
_Thị trường bất động sản u ám cuối năm, bên cạnh chính sách không khoan nhượng covid của Trung Quốc và không có nhiều chính sách hỗ trợ sau đại hội Đảng Trung Quốc lần thứ 20.
_Chính sách không khoan nhượng với covid đã làm giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Bất ổn địa chính trị do căng thẳng Nga-Ukraina cũng khiến thị trường bất ổn.
_Bên cạnh đó, đồng NDT mất giá tiếp tục kéo giá giảm. Sự sụt giảm tiền tệ dự kiến sẽ tiếp tục làm tổn hại đến tính thanh khoản của thị trường trong tương lai gần. Trung Quốc đã trải qua mùa cao điểm “Tháng 9 vàng tháng 10 bạc” không như kỳ vọng. Người dùng cuối vẫn chậm bắt kịp đà tăng của thị trường do nhu cầu ở hạ nguồn yếu, khiến tồn kho gia tăng.
_ Các yếu tố thời tiết sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến tiến độ xây dựng về cuối năm, và Fed sẽ tăng lãi suất vào đầu tháng 11.
Yếu tố hỗ trợ:
_Tuy nhiên, thị trường có thể được hỗ trợ phần nào từ chính sách giảm sản xuất mùa đông, thường bắt đầu vào tháng 11 hàng năm, mặc dù được cho là không nghiêm khắc như mọi năm, nhưng giúp giảm sản lượng và tồn kho về cuối năm khi tiêu thụ chậm.
_Chi phí năng lượng và nguyên liệu thô cũng gia tăng vào mùa đông khi quá trình gom gặp khó khăn và nhu cầu tiêu thụ điện năng, sưởi ấm tăng cao. Điều này sẽ hỗ trợ giá thép. Giá thép đã giảm suốt từ tháng 4 tới nay khiến lợi nhuận giảm mạnh và một số nhà máy vẫn đang thua lỗ. Điều này có vẻ gần đặt đáy cho giá thép.
Do đó, dự kiến xu hướng giá cả 2 tháng cuối năm không mấy khả quan, sẽ tiếp tục biến động nhưng phạm vi nhẹ và có thể củng cố về cuối năm. Giá HRC SAE1006 Trung Quốc dự kiến chào khoảng 550-570 cfr Việt Nam cuối năm.