Giá thép nội địa của Trung Quốc giảm nhẹ sau mức tăng của những ngày trước nhờ nới lỏng các biện pháp kiềm chế Covid, trong khi giá vận chuyển bằng đường biển tăng do đồng nhân dân tệ của Trung Quốc mạnh hơn và giá thị trường quốc tế cao hơn.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn xuống còn 3,800 NDT/tấn do các thương nhân cắt giảm giá chào trong giao dịch trì trệ. Giá thép cây kỳ hạn tháng 5 giảm 0.6% xuống 3,808 NDT/tấn.
Giá thép cây ở Bắc Kinh đứng ở mức thấp hơn là 3,700 NDT/tấn do nhu cầu của ngành xây dựng yếu theo mùa. Nhưng các kho thép ở Bắc Kinh đang dần hoạt động trở lại khi thành phố nới lỏng các chính sách kiểm soát Covid. Một số nhà máy phía bắc Trung Quốc và phía đông Trung Quốc đã giảm giá xuất xưởng thép cây khoảng 10-20 NDT/tấn. Những người tham gia kỳ vọng khả năng giảm giá thép cây sẽ bị hạn chế do một số nhà máy ở phía bắc Trung Quốc ước tính đang hoạt động với mức lỗ hơn 200 NDT/tấn.
Trong ngắn hạn, với tiền đề lợi nhuận kém, nguồn cung của các nhà máy thép khó phục hồi và dao động duy trì trong biên độ hẹp. Với nhu cầu yếu trong trái vụ và sự không chắc chắn của chính sách dự trữ mùa đông ở nhiều nơi, nhu cầu giảm đã hạn chế đà tăng giá. Trong ngắn hạn, thị trường vẫn mắc kẹt giữa kỳ vọng mạnh và thực tế yếu, nên giá cả sẽ còn biến động phạm vi hẹp.
Thép công nghiệp
Giá xuất xưởng HRC Q235B ở Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn (1.4 USD/tấn) xuống còn 3,940 NDT/tấn. Hợp đồng tương lai sôi động nhất chuyển sang tháng 5 và giảm 0.2% xuống 3,920 NDT/tấn so với ngày giao dịch trước đó.
Các thương nhân cho biết thị trường trong nước tăng nhanh trong vài ngày qua, nhưng giao dịch giao ngay không sôi động. Giá giảm nhẹ là điều nằm trong dự đoán sau khi tăng bền vững, nhưng khó có khả năng giảm sâu do chính sách nới lỏng Covid của Trung Quốc và triển vọng tích cực về nền kinh tế vào năm tới.
Thị trường xuất khẩu
Các nhà máy lớn của Trung Quốc đã đẩy giá chào lên 574-580 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400 do giá bán trong nước cao hơn và đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tăng giá so với đồng đô la Mỹ. Hầu hết họ miễn cưỡng nhận các đơn hàng dưới 5570-575 USD/tấn fob Trung Quốc. Các thương nhân cũng tăng giá chào lên tương đương 555-565 USD/tấn fob Trung Quốc.
Các nhà máy và thương nhân Trung Quốc cho biết những người mua bằng đường biển chủ yếu im lặng, do nhu cầu trong khu vực kém và giá kỳ hạn và giá giao ngay nội địa Trung Quốc giảm vào buổi chiều. Chỉ những người mua hạn chế bày tỏ sự quan tâm mua ở mức tương đương khoảng 535-545 USD/tấn fob Trung Quốc.
Chào bán tăng 12-20 USD/tấn lên 570-590 USD/tấn cfr Việt Nam cho thép Trung Quốc, một số miễn cưỡng bán dưới 585 USD/tấn cfr.
Hầu hết người mua Việt Nam đều im lặng vì họ cho rằng đợt tăng giá mạnh chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Một số người mua có nhu cầu ngay lập tức đã nâng giá thầu lên 560-580 USD/tấn cfr Việt Nam, nhưng không có thỏa thuận nào được ký kết. Một thương nhân Việt Nam cho biết các nhà máy từ các quốc gia khác, bao gồm cả Nhật Bản, có thể cần tăng giá chào hàng để phù hợp với tâm lý thị trường. Nhưng sẽ mất thời gian để người mua trong nước chấp nhận được mức tăng giá mạnh.
Triển vọng
Nhìn chung, triển vọng nhu cầu vẫn thấp cuối năm, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu và nhu cầu vào mùa trái vụ. Tuy nhiên, giá cả có thể ổn định và tăng nhẹ trong tháng cuối năm và đầu năm sau kèm biến động phạm vi hẹp, dựa vào những yếu tố sau:
Yếu tố áp lực
_Kinh tế vĩ mô suy yếu.
_Thị trường bất động sản vẫn gặp áp lực.
_Dịch covid bất ổn và lập trường không covid của Trung Quốc.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga- Ukraina.
_ Nhu cầu vào mùa thấp điểm, mong muốn thanh lý hàng tồn cuối năm.
Yếu tố hỗ trợ:
_Nguồn cung giảm từ các chính sách cắt giảm sản xuất.
_Chi phí đầu vào cao từ quặng sắt, than đá, năng lượng.
_Chính quyền công bố các biện pháp nới lỏng covid, và lãi suất Mỹ dự kiến tăng hạn chế nới lỏng tâm lý lo ngại trên thị trường.
_Các kích thích kinh tế của Chính phủ, cắt giảm lãi suất cho vay, nới lỏng kiểm soát dịch.
Do đó, dự kiến xu hướng giá cả còn biến động song sẽ dần củng cố ổn định và nhích nhẹ vào cuối năm đến tháng 1 năm sau với nhu cầu cải thiện, các cắt giảm sản xuất hỗ trợ hàng tồn. Phạm vi biến động hạn chế, vào khoảng 30-40 USD/tấn. Giá HRC SAE1006 Trung Quốc dự kiến chào khoảng 560-600 cfr Việt Nam tháng 12-tháng 1.