Thị trường thép nội địa Trung Quốc vẫn đang vững chắc trong khi giá đường biển phát tín hiệu suy yếu vì áp lực nhu cầu.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Thép cây giao ngay tại Thượng Hải không đổi ở mức 3,670 NDT/tấn (506.68 USD/tấn) vào ngày 6/7. Giá thanh cốt thép kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0.11% lên 3,758 NDT/tấn.
Các công ty thương mại giữ giá chào thép cây ở mức 3,660-3,690 NDT/tấn do giao dịch trầm lắng. Tồn kho thép cây hàng tuần của các công ty thương mại và nhà sản xuất tại các thành phố lớn trong nước tăng 80,000 tấn, thấp hơn so với mức tăng 200,000 tấn hàng tồn kho của tuần trước.
Sản lượng thép thô từ các nhà máy thuộc Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc đã giảm 0.47% từ ngày 11-20/6 xuống còn 2.246 triệu tấn/ngày trong khoảng thời gian từ ngày 21-30/6. Những người tham gia thị trường cho biết sản lượng thấp hơn dự kiến sẽ hỗ trợ giá thép ở một mức độ nào đó.
Thép công nghiệp
HRC giao ngay tại Thượng Hải tăng 10 nhân dân tệ/tấn (1.38 USD/tấn) lên 3,880 NDT/tấn vào ngày 6/7.
HRC kỳ hạn tháng 10 tăng 0.18% lên 3,860 NDT/tấn. Tồn kho HRC do các công ty thương mại và nhà máy nắm giữ đã tăng 100,000 tấn trong tuần này, so với mức tăng gần 110,000 tấn vào tuần trước.
Thị trường xuất khẩu
Thị trường trầm lắng, với các nhà máy lớn của Trung Quốc giữ giá chào không đổi ở mức 555-585 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC loại SS400. Những người mua bằng đường biển im lặng trong các cuộc đấu giá vì nhu cầu trong khu vực thấp và những bất ổn xung quanh xu hướng giá xuất khẩu của Trung Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ tạm lắng trong mùa hè. “Không có yêu cầu nào được nhận trong tuần này, từ Trung Đông hay Châu Phi,” một giám đốc nhà máy ở phía đông Trung Quốc cho biết.
Người mua Việt Nam không thể chấp nhận mức giá vượt quá 545 USD/tấn cfr Việt Nam, tầm 535 USD/tấn fob Trung Quốc.
Người mua Việt Nam tỏ ra lạnh nhạt với giá chào hàng của Trung Quốc là 593 USD/tấn cfr Việt Nam cho thép cuộn loại SAE1006. Một số trong số họ đã đặt đủ số lượng đơn đặt hàng từ nhà máy nội địa Hòa Phát để hoạt động bình thường ở mức 580-581 USD/tấn cif Việt Nam. Do đó, họ không vội vàng đặt hàng mới trong thời gian ngắn.
Triển vọng
Giá biến động giữa một bên là các yếu tố hỗ trợ từ cắt giảm sản lượng tháng này, các chính sách kích thích kinh tế từ Chính phủ và số liệu kinh tế vĩ mô tích cực trong khi nhu cầu đang yếu trong mùa trái vụ.
Các nhà máy thép địa phương ở Đường Sơn đã được lệnh cắt giảm sản lượng thiêu kết 30-50% từ ngày 1-31/7, và các lò cao cũng được yêu cầu giảm sản lượng một cách thích hợp. Các tin tức này đang đẩy thị trường tăng giá.
Trung Quốc tiếp tục thể hiện quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 5% trong năm 2023 với nhiều giải pháp chuẩn bị được tung ra trong nửa cuối năm liên quan tới bất động sản, đầu tư hạ tầng, xuất nhập khẩu và nhiều chính sách khác. Ngoài ra, hiện thị trường cũng xuất hiện tin đồn Bộ trưởng tài chính Mỹ sẽ thăm Trung Quốc đầu tháng 7 để tháo gỡ các tồn tại về thương mại giữa 2 nước và thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ cũng không thúc đẩy được thị trường mạnh mẽ, trong khi tin tức về việc FED gần như chắc chắn tăng lãi suất ở tháng 7 cũng khiến thị trường chịu áp lực lớn hơn.
Tóm lại, yếu tố áp lực:
_Nhu cầu chậm do vào mùa trái vụ, thời tiết bất lợi.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga - Ukraina.
_ Tăng trưởng kinh tế chậm.
_ Cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc tăng cường kiểm tra giá nguyên liệu thô.
_Sản lượng thép tăng, tồn kho tích lũy tăng.
_Các chính sách được ban hành nhưng hiệu quả không chắc chắn.
Yếu tố hỗ trợ:
_Chi phí đầu vào vẫn cao.
_Khả năng cắt giảm sản xuất thép tăng cường trong nửa cuối năm.
_Nhu cầu phục hồi từ cuối Q2.
_ Chính sách kích thích kinh tế được đẩy mạnh, thúc đẩy tâm lý.
_ Số liệu sản xuất tăng trưởng.
Giá cả tiếp tục dự kiến biến động tăng giảm luân phiên, nhưng xu hướng chính là phục hồi vào Q3 so với Q2. Phạm vi biến động dự kiến vẫn hạn chế vào tầm 30-40 USD/tấn, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam đạt khoảng 600-610 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 9.