Giá phục hồi nhẹ do tâm lý thị trường được hỗ trợ bởi các chính sách mới của Trung Quốc đối với ngành bất động sản, ngành tiêu thụ thép lớn nhất trong nước.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Thép cây giao ngay tại Thượng Hải không đổi ở mức 3,620 NDT/tấn (502.39 USD/tấn) vào ngày 11/7. Giá thanh cốt thép kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải ổn định ở mức 3,679 NDT/tấn. Các thương nhân giữ giá chào thép cây ở mức 3,610-3,640 NDT/tấn. Giao dịch thị trường có dấu hiệu cải thiện trong phiên chiều.
Thương mại thép cây tại các thành phố lớn trong nước tăng 40,000 tấn từ ngày 10/7 lên 170,000 tấn vào ngày 11/7. Tuy nhiên, những người tham gia thị trường không kỳ vọng nhu cầu sẽ tăng trong thời gian trái vụ vào tháng 7 và tháng 8. Một nhà máy lớn ở phía đông Trung Quốc đã giảm giá xuất xưởng thép cây 100 NDT/tấn xuống còn 3,970 NDT/tấn cho các đợt giao hàng vào giữa tháng 7.
Thép công nghiệp
HRC giao ngay tại Thượng Hải tăng 10 nhân dân tệ/tấn (1.39 USD/tấn) lên 3,830 NDT/tấn vào ngày 11/7. HRC kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải không đổi ở mức 3,782 NDT/tấn.
Giao dịch trên thị trường giao ngay cải thiện nhẹ so với ngày hôm trước. Tâm lý thị trường tăng lên sau khi một số biện pháp hỗ trợ cho các nhà phát triển bất động sản được ngân hàng trung ương Trung Quốc PBOC công bố vào tối 10/7.
Các khoản vay của các nhà phát triển bất động sản đến hạn phải trả trước ngày 31/ 12/2024 đã được gia hạn thêm một năm và đối với các dịch vụ tài chính khác được cung cấp trước cuối năm 2024 liên quan đến các khoản vay của các nhà phát triển bất động sản sẽ không phải chịu rủi ro đã điều chỉnh xếp hạng. Những người tham gia thị trường giải thích đây là tín hiệu để Trung Quốc hỗ trợ tài chính nhiều hơn cho các nhà phát triển bất động sản.
Thị trường xuất khẩu
Một nhà máy lớn của Trung Quốc giữ giá chào không thay đổi ở mức 575 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400, và nhà máy có thể xem xét các đơn đặt hàng ở mức 560 USD/tấn fob Trung Quốc.
Các nhà máy lớn khác của Trung Quốc tăng hoặc giữ nguyên giá chào hoặc bán ở mức 538-560 USD/tấn fob Trung Quốc, do giá bán nội địa ổn định. Các nhà máy và công ty thương mại cho biết, một số ít người mua bằng đường biển sẽ cân nhắc mua ở mức 550-560 USD/tấn fob Trung Quốc, trong khi hầu hết những người khác miễn cưỡng đặt hàng ở mức trên 545 USD/tấn fob Trung Quốc. Một số công ty thương mại thậm chí còn sẵn sàng nhận đơn đặt hàng với giá tương đương khoảng 530 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400.
Các công ty thương mại giảm chào giá khoảng 5 USD/tấn xuống còn 584 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn loại SAE1006 của Trung Quốc. Nhà máy Việt Nam Hòa Phát đã giảm giá bán trong nước khoảng 3-6 USD/tấn xuống còn 575-577 USD/tấn cfr cho các lô hàng tháng 8 và tháng 9 của thép cuộn loại SS400 và SAE1006, cho thấy nhu cầu trong khu vực yếu.
Một nhà máy khác của Việt Nam, Formosa Hà Tĩnh, đã nâng giá chào hàng tháng khoảng 10-15 USD/tấn lên 590-615 USD/tấn cif Việt Nam cho thép cuộn loại SS400 và SAE1006 cho lô hàng tháng 8 và tháng 9. Hầu hết người mua Việt Nam không thể chấp nhận mức giá trên 570 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn loại SAE.
Triển vọng
Giá biến động giữa một bên là các yếu tố hỗ trợ từ cắt giảm sản lượng tháng này, các chính sách kích thích kinh tế từ Chính phủ và số liệu kinh tế vĩ mô tích cực trong khi nhu cầu đang yếu trong mùa trái vụ.
Các nhà máy thép địa phương ở Đường Sơn đã được lệnh cắt giảm sản lượng thiêu kết 30-50% từ ngày 1-31/7, và các lò cao cũng được yêu cầu giảm sản lượng một cách thích hợp. Các tin tức này đang đẩy thị trường tăng giá.
Trung Quốc tiếp tục thể hiện quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 5% trong năm 2023 với nhiều giải pháp chuẩn bị được tung ra trong nửa cuối năm liên quan tới bất động sản, đầu tư hạ tầng, xuất nhập khẩu và nhiều chính sách khác. Ngoài ra, hiện thị trường cũng xuất hiện tin đồn Bộ trưởng tài chính Mỹ sẽ thăm Trung Quốc đầu tháng 7 để tháo gỡ các tồn tại về thương mại giữa 2 nước và thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ cũng không thúc đẩy được thị trường mạnh mẽ, trong khi tin tức về việc FED gần như chắc chắn tăng lãi suất ở tháng 7 cũng khiến thị trường chịu áp lực lớn hơn.
Tóm lại, yếu tố áp lực:
_Nhu cầu chậm do vào mùa trái vụ, thời tiết bất lợi.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga - Ukraina.
_ Tăng trưởng kinh tế chậm.
_ Cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc tăng cường kiểm tra giá nguyên liệu thô.
_Sản lượng thép tăng, tồn kho tích lũy tăng.
_Các chính sách được ban hành nhưng hiệu quả không chắc chắn.
Yếu tố hỗ trợ:
_Chi phí đầu vào vẫn cao.
_Khả năng cắt giảm sản xuất thép tăng cường trong nửa cuối năm.
_Nhu cầu phục hồi từ cuối Q2.
_ Chính sách kích thích kinh tế được đẩy mạnh, thúc đẩy tâm lý.
_ Số liệu sản xuất tăng trưởng.
Giá cả tiếp tục dự kiến biến động tăng giảm luân phiên, nhưng xu hướng chính là phục hồi vào Q3 so với Q2. Phạm vi biến động dự kiến vẫn hạn chế vào tầm 30-40 USD/tấn, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam đạt khoảng 600-610 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 9.