Giá xuất khẩu thép Trung Quốc giảm do nhu cầu đường biển yếu, trong khi giá nội địa ổn định với một số nhà máy báo lỗ.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Giá thép cây giao ngay tại Thượng Hải không đổi ở mức 4,030 NDT/tấn (585.52 USD/tấn). Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 giảm 3 NDT/tấn còn 3,900 NDT/tấn.
Thương mại thép cây tại các thành phố lớn trong nước giảm 40,000 tấn mỗi ngày xuống còn 154,000 tấn hôm qua, nhưng các thương nhân không giảm giá chào vì một số nhà máy hiện đang hoạt động thua lỗ. Điều này ngụ ý rằng khả năng giá giảm hơn nữa có thể bị hạn chế.
Khoản lỗ của các nhà máy lò hồ quang điện (EAF) ở Đông Trung Quốc ước tính khoảng 50-100 NDT/tấn và một số nhà máy lò cao đang phải vật lộn để hòa vốn. Giá thanh cốt thép đã giảm 320 NDT/tấn hay 7.36% từ 4,350 NDT/tấn vào ngày 14/3, mức cao nhất trong năm nay. “Nếu tổn thất của các nhà máy gia tăng, nhiều nhà sản xuất sẽ cắt giảm sản lượng và điều đó sẽ hỗ trợ giá thép,” một thương nhân phía bắc Trung Quốc cho biết.
Thép công nghiệp
Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải không đổi ở mức 4,190 NDT/tấn (608.41 USD/tấn) hôm qua.
HRC kỳ hạn tháng 10 giảm 0.03% xuống 3,997 NDT/tấn. Một số thương nhân đã cố gắng tăng giá 20-30 NDT/tấn lên 4,210-4,220 NDT/tấn vào buổi sáng, nhưng người mua chưa sẵn sàng để bắt kịp với mức tăng tiếp theo.
Các thương nhân cho biết mức độ giao dịch trên thị trường giao ngay phần lớn ổn định so với ngày hôm trước. Các nhà máy thép lò cao hiện có biên lợi nhuận không quá 100 NDT/tấn đối với HRC và một số thậm chí còn lỗ nhẹ, nhưng các nhà máy thép lớn không có kế hoạch giảm sản lượng HRC trong tháng 4, vì họ đang tăng cường sản xuất để đáp ứng các đơn đặt hàng đặt trước vào tháng 2 và tháng 3 để giao hàng vào tháng 4.
Thị trường xuất khẩu
Một nhà máy phía đông Trung Quốc đã giảm giá chào 5 USD/tấn xuống còn 635 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400, nhưng họ không thu hút do người mua im lặng trước giá bán của các công ty thương mại ở mức khoảng 600 USD/tấn fob Trung Quốc. Các nhà máy lớn khác của Trung Quốc giữ giá chào không đổi ở mức 640-660 USD/tấn fob.
Các giao dịch cho SS400 của Trung Quốc đã được ký kết ở mức 590 USD/tấn cfr Việt Nam và 610 USD/tấn cfr Hàn Quốc, nhưng không có thêm thông tin chi tiết nào có thể được xác nhận và hầu hết người bán không muốn nhận đơn đặt hàng ở các mức đó.
Một số người mua Hàn Quốc đã mua một lượng nhỏ HRC SS400 của Trung Quốc với giá khoảng 650 USD/tấn fob Trung Quốc cho nhu cầu tức thời, nhưng mức đó quá cao để đại diện cho mức thị trường phổ thông, họ nói thêm.
Người bán giữ giá bán không đổi ở mức 640-660 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn loại SAE1006 của Trung Quốc. Người mua Việt Nam miễn cưỡng đưa ra bất kỳ giá thầu nào vì họ dự đoán giá sẽ sớm giảm do nhu cầu thép quốc tế yếu.
Triển vọng
Giá cả dự kiến phục hồi trong Q2 khi vào mùa cao điểm. Song xu hướng giá biến động giảm đan xen, kìm hãm mức tăng, lý do:
Yếu tố áp lực:
_ Không có chính sách kích thích mới nào cho ngành bất động sản, trọng tâm vẫn là rủi ro tài chính cho các công ty bất động sản.
_Chỉ số PMI sản xuất giảm.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga - Ukraina.
_ Nhu cầu chậm hơn kỳ vọng, mưa lớn cản trở xây dựng.
_ Cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc sẽ tăng cường kiểm tra hành vi thao túng giá và tích trữ bất hợp pháp nguyên liệu thô.
_Nguồn cung thép tăng.
Yếu tố hỗ trợ:
_Chi phí đầu vào cao từ quặng sắt, than đá, năng lượng.
_Xu hướng tăng giá toàn cầu.
_Nhu cầu phục hồi vào Q2.
_Điều kiện kinh tế vĩ mô tốt.
Nhu cầu phục hồi cộng với chi phí nguyên liệu thô cao sẽ hỗ trợ giá cả trong Q2, nhưng phạm vi nhỏ và giảm đan xen do mưa làm cản trở các hoạt động xây dựng, và các kiểm soát giá nguyên liệu thô từ Chính phủ gây áp lực lên giá thép. Phạm vi biến động dự kiến vẫn hạn chế vào tầm 40-50 USD/tấn trong 2 tháng tới, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam tăng lên khoảng 700-720 USD/tấn cfr Việt Nam trong tháng 5-tháng 6.