Giá cả phân hóa trên thị trường thép Trung Quốc trong ngày hôm qua, với thị trường chờ đợi dữ liệu kinh tế hàng tháng của Trung Quốc dự kiến sẽ được công bố trong tuần này.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 20 nhân dân tệ/tấn (2.9 USD/tấn) xuống 3,850 NDT/tấn do giá thép cây kỳ hạn tháng 5 giảm 0.28% xuống 3,937 NDT/tấn.
Một số nhà máy phía đông và phía bắc Trung Quốc đã giảm giá xuất xưởng thép cây khoảng 10-30 NDT/tấn trong ngày do không có nhu cầu. Hầu hết các nhà máy thép cây vẫn thua lỗ sau khi giá phục hồi vào đầu tháng 12.
Một nhà sản xuất ở Vân Nam sẽ đóng cửa một lò cao và một dây chuyền sản xuất thép cây từ ngày 15/12 trong 26 ngày. Sản lượng cắt giảm ước tính là 7,500 tấn/ngày đối với kim loại nóng và 4,000 tấn/ngày đối với thép cây.
Nói chung, nhu cầu thỉnh thoảng tăng lên gần đây chỉ là giữa các thương nhân chứ không phải nhu cầu cuối thực sự tăng. Áp lực tồn kho vẫn còn, nên giá sẽ còn áp lực giảm tuần này.
Thép công nghiệp
Giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 20 nhân dân tệ/tấn (2.90 USD/tấn) xuống còn 4,060 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 5 giảm 0.37% xuống 4,032 NDT/tấn.
Giao dịch giao ngay chậm lại khi thị trường chờ đợi dữ liệu kinh tế hàng tháng của Trung Quốc dự kiến sẽ được công bố trong tuần này. Cuộc họp cuối cùng trong năm của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, cũng dự kiến vào cuối tuần này, đang được theo dõi để biết các chỉ dẫn về chính sách năm 2023 của ngân hàng trung ương.
Thị trường xuất khẩu
Các nhà máy tiếp tục tăng giá chào bán xuất khẩu dựa vào giá nội địa tăng trưởng, xu hướng tăng trưởng toàn cầu và chi phí nguyên liệu thô cao. Hai nhà máy lớn của Trung Quốc nâng giá chào hàng tuần đối với HRC SS400 thêm 20-50 USD/tấn lên 595-600 USD/tấn fob Trung Quốc. Các nhà máy lớn khác của Trung Quốc giữ giá chào không đổi hoặc tăng lên 590-600 USD/tấn fob Trung Quốc.
Hầu hết người mua bằng đường biển đều không hoạt động, đặc biệt là sau khi thấy giá kỳ hạn và giá giao ngay của Trung Quốc giảm. Một công ty thương mại Trung Quốc cho biết giá chào mua cao nhất sẽ vào khoảng 585 USD/tấn cfr Việt Nam hoặc Hàn Quốc. Một thỏa thuận cho 10,000 tấn HRC SS400, được sản xuất bởi một nhà máy phía bắc Trung Quốc, đã được ký kết ở mức 585 USD/tấn cfr Việt Nam trong tuần này, khoảng 575 USD/tấn fob Trung Quốc.
Thị trường trầm lắng tại Việt Nam với giá chào ổn định ở mức 600-610 USD/tấn cfr Việt Nam cho thép cuộn loại SAE1006 từ và Trung Quốc. Người mua Việt Nam vẫn đang chờ đợi giá chào hàng tháng của nhà máy địa phương Formosa Hà Tĩnh.
Triển vọng
Nhìn chung, triển vọng nhu cầu vẫn thấp tới tháng 1 năm sau và thời gian tới do vào mùa trái vụ, suy thoái kinh tế toàn cầu, các bất ổn do dịch covid và bất ổn chiến tranh Nga- Ukraina. Những cũng được hỗ trợ từ các chính sách kích thích từ Chính phủ và mặt bằng chi phí nguyên liệu thô cao. Giá cả dự kiến biến động và tăng nhẹ song phạm vi tăng giảm hạn chế trong ngắn hạn tới.
Yếu tố áp lực
_Kinh tế vĩ mô suy yếu.
_Thị trường bất động sản áp lực do thiếu vốn, đầu tư.
_Dịch covid bất ổn và lập trường không covid của Trung Quốc.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga- Ukraina.
_ Nhu cầu vào mùa thấp điểm, tập trung thanh lý hàng tồn cuối năm.
Yếu tố hỗ trợ:
_Nguồn cung giảm từ các chính sách cắt giảm sản xuất.
_Chi phí đầu vào cao từ quặng sắt, than đá, năng lượng.
_Chính quyền công bố các biện pháp nới lỏng covid, và lãi suất Mỹ dự kiến tăng hạn chế nới lỏng tâm lý lo ngại trên thị trường.
_Các kích thích kinh tế của Chính phủ như cắt giảm lãi suất cho vay giúp hỗ trợ thị trường bất động sản và tâm lý.
Tết Nguyên đán đang đến gần, nhu cầu trái vụ hạ nhiệt trên diện rộng, đặc biệt suy yếu ở khu vực phía Bắc. Thị trường ế ẩm, sự nhiệt tình tăng giá đã chậm lại. Xét rằng xu hướng của nguyên liệu thô là tương đối mạnh trong tương lai gần,cộng với các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ hỗ trợ niềm tin thị trường nên sẽ hỗ trợ giá cả ổn định và tăng nhẹ trong tháng 1-tháng 2. Phạm vi tăng trưởng 30-40 USD/tấn.