Giá thép nội địa tuy có nhích nhẹ nhưng thương mại chậm lại và tâm lý hạ nhiệt do triển vọng mờ mịt, trong khi phía đường biển ổn định.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Thép cây giao ngay tại Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn (2.74 USD/tấn) lên 3,660 NDT/tấn vào ngày 17/10. Giá thép cây kỳ hạn tháng 1 tăng 0.61% lên 3,647 NDT/tấn.
Hôm qua, các nhà máy lớn của Trung Quốc đã tăng giá xuất xưởng thanh cốt thép thêm 20-40 NDT/tấn và các công ty thương mại địa phương đã tăng giá chào thanh cốt thép lên 3,660-3,690 NDT/tấn. Các nhà máy chủ động tăng giá sau khi giao dịch tăng lên từ tuần trước, nhưng giao dịch cho thấy một số dấu hiệu chậm lại vào chiều qua.
Một số người tham gia vẫn thận trọng về triển vọng thị trường vì họ cho rằng nhu cầu từ ngành bất động sản sẽ vẫn ở mức thấp trong thời gian còn lại của năm nay.
Thép công nghiệp
HRC giao ngay ở Thượng Hải đã tăng 10 NDT/tấn (1.37 USD/tấn) lên 3,770 NDT/tấn vào ngày 17/10. Hợp đồng tương lai HRC tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng 0.67% lên 3,766 NDT/tấn.
Các thương nhân đã tăng giá thêm 10-20 NDT/tấn lên 3,770-3,780 NDT/tấn, sau khi tăng 30 NDT/tấn vào ngày hôm trước, nhưng giao dịch chậm lại do giá liên tục tăng. Tâm lý thị trường không ổn định giữa việc cắt giảm sản xuất của các nhà máy và nhu cầu thấp.
Một nhà máy thép ở phía đông Trung Quốc đang lên kế hoạch đại tu một lò cao vào tháng 11, cắt giảm sản lượng kim loại nóng 3,000 tấn/ngày, hiện tại chưa rõ ngày nối lại. Một số thương nhân cho biết, việc cắt giảm sản lượng hiện tại ở Trung Quốc không đủ để bù đắp nhu cầu sụt giảm trong những tháng tới khi mùa đông đang đến gần, trong khi các nhà máy thép đang có xu hướng giữ giá ổn định do nguồn cung giảm trong bối cảnh công việc bảo trì.
Thị trường xuất khẩu
Một số giao dịch cho HRC Trung Quốc đã được ký kết ở mức 525 USD/tấn cfr Việt Nam ngày hôm trước, nhưng không có thông tin chi tiết nào có thể được xác nhận. Những người tham gia cho biết mức đó được người mua Việt Nam chấp nhận đối với SS400, thấp hơn nhiều so với mức giá mà các nhà máy Trung Quốc đưa ra ở mức trên 540 USD/tấn fob Trung Quốc. Người mua từ các quốc gia khác có thể xem xét đặt hàng ở mức 520 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400, một nhà máy Trung Quốc cho biết, đồng thời cho biết thêm rằng một số thương nhân sẵn sàng nhận đơn đặt hàng ở mức đó cho cuộn dây do các nhà máy Trung Quốc nhỏ hơn sản xuất.
Người bán cắt giảm giá chào xuống 550-570 USD/tấn cfr Việt Nam từ 570 USD/tấn cfr Việt Nam đối với cuộn loại SAE1006 của Trung Quốc. Những người mua Việt Nam im lặng trong việc trả giá - một số sẽ không đặt hàng trên 560 USD/tấn cfr Việt Nam, những người tham gia trong nước cho biết, đồng thời cho biết thêm rằng người mua không vội mua trong bối cảnh nhu cầu nội địa trì trệ.
Triển vọng
Thị trường sau lễ yếu và nhu cầu dự kiến sẽ còn chậm trong tháng 10-tháng 11 khi bước vào mùa mưa, gây bất lợi cho ngành xây dựng, kéo giá giao ngay giảm.
Rủi ro từ phía cung vẫn tiếp diễn vì các cắt giảm sản xuất còn nhỏ lẻ. Trong năm nay chưa có các tin đồn về cắt giảm sản xuất cuối năm quy mô rộng như những năm ngoái, khiến thị trường hoài nghi về áp lực cung -cầu tiếp diễn tới cuối năm.
Bù lại, giá cả được hỗ trợ bởi yếu tố chi phí nguyên liệu thô vững chắc cũng như sự thua lỗ của các nhà máy. Chi phí quặng sắt và than cốc tăng mạnh, sẽ làm điểm tựa cho giá thép. Ngoài ra, do giá thép thua lỗ, với mức lỗ lên tới 200 NDT/tấn cho thép cây nên các nhà máy sẽ hạn chế giảm giá và tìm cách tăng lại để kiếm lời.
Chính quyền cũng sẽ cố gắng tung ra nhiều chính sách hỗ trợ ngành thép cuối năm và đầu năm với kỳ vọng kinh tế vĩ mô phục hồi vào đầu năm 2024.
Do đó, giá thép kỳ vọng biến động yếu trong tháng 10-tháng 11 và sự phục hồi nhỏ có thể đến vào tháng 12-đầu năm 2024 với kỳ vọng kinh tế vĩ mô tốt hơn và tiêu thụ phục hồi các tháng đầu năm 2024. Phạm vi biến động tầm 30-40 USD/tấn, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam dao động gần 580-590 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 12/2023-tháng 1/2024.