Nguồn cung giảm đã phần nào cứu vãn đà tụt giá gần đây, hỗ trợ giá nhích nhẹ trong ngày thứ ba. Các nhà máy đang thua lỗ 100-150 NDT/tấn nên có phần kháng cự nhưng triển vọng thị trường chưa hết bi quan khi mà nhu cầu khó có thể cải thiện nhiều trong ngắn hạn.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Thép cây giao ngay tại Thượng Hải tăng 30 NDT/tấn (4.2 USD/tấn) lên 3,100 NDT/tấn vào ngày 20/8. Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 tăng 1.93% lên 3,172 NDT/tấn.
Nguồn cung thép cây của các nhà máy Trung Quốc cho thấy dấu hiệu rõ ràng là sẽ giảm sau khi các nhà máy tăng cường cắt giảm sản lượng từ đầu tháng 8. Hàng tồn kho của các nhà giao dịch và nhà máy cũng đang giảm, với những người tham gia dự kiến nhu cầu mạnh hơn từ các dự án xây dựng hạ nguồn vào tháng 9, mùa cao điểm tiêu thụ thép điển hình.
Nhưng các nhà máy có thể thu hẹp phạm vi cắt giảm sản lượng vào cuối tháng 8, với mức lỗ thu hẹp xuống còn 30-50 NDT/tấn từ 150-200 NDT/tấn vào đầu tháng 8. Một số nhà máy có thể hòa vốn, dựa trên chi phí nguyên liệu thô mới nhất. Những người tham gia thị trường cho biết giá hiện tại phục hồi chủ yếu do nguồn cung thấp hơn của các nhà máy thay vì nhu cầu mạnh hơn.
Thép công nghiệp
Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn (2.80 USD/tấn) lên 3,110 NDT/tấn, mức tăng đầu tiên kể từ ngày 5/8. Giá HRC tương lai tháng 10 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng 1.97% lên 3,217 NDT/tấn. Người bán đã nâng giá thêm 20-30 NDT/tấn lên 3,110-3,120 NDT/tấn với sự phục hồi của hợp đồng tương lai và khi các giao dịch trên thị trường giao ngay tăng lên so với ngày hôm trước.
Tâm lý thị trường thép đã cải thiện đôi chút khi các cuộc đàm phán thị trường cho biết nhiều nhà máy thép dẹt hơn ở miền bắc Trung Quốc đang có kế hoạch bảo dưỡng lò cao từ cuối tháng 8, sau khi một nhà máy lớn công bố kế hoạch bảo dưỡng hôm trước. Nhưng hầu hết người mua vẫn thận trọng và không muốn mua nhiều hơn mức họ cần.
Những người tham gia tỏ ra hoài nghi về tính bền vững của đợt phục hồi giá, vì lượng hàng tồn kho HRC khó có thể giảm trong thời gian tới và nhu cầu vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện đáng kể. Một số công ty giao dịch có vẻ lạc quan hơn một chút vì họ tin rằng đà giảm đã dịu đi sau khi giá liên tục giảm trong vài tuần qua.
Thị trường xuất khẩu
Người bán đã nâng giá chào hàng hoặc giá bán lên khoảng 5 USD/tấn, tương đương khoảng 445-460 USD/tấn fob Trung Quốc đối với thép cuộn cán nóng Q235 và SS400, sau khi chứng kiến giá giao sau và giá thực tế của Trung Quốc tăng.
Hôm qua, chúng tôi nhận được thêm nhiều yêu cầu từ Hàn Quốc, Philippines, Bangladesh và UAE, nhưng giá chào hàng của họ ở mức hoặc thấp hơn 445 USD/tấn fob Trung Quốc, một giám đốc nhà máy ở miền bắc Trung Quốc cho biết.
Hầu hết người mua tại Việt Nam chỉ quan tâm đến việc đặt hàng cho các lô hàng nhanh chóng vào và trước tháng 9 vì họ lo ngại về khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với HRC nhập khẩu từ Trung Quốc cho các lô hàng sau tháng 9, những người tham gia tại Việt Nam và Trung Quốc cho biết. Nhưng không có tin tức chính thức nào về thuế được xác nhận.
Các nhà giao dịch đã nâng giá chào lên 485 USD/tấn cfr Việt Nam cho cuộn thép SAE1006 của Trung Quốc từ 470-480 USD/tấn cfr Việt Nam, cho lô hàng vào tháng 10. Nhưng người mua Việt Nam vẫn im lặng trước các cuộc đấu thầu trong bối cảnh không chắc chắn. Những người tham gia tại Việt Nam cho biết họ hoài nghi về tính bền vững của mức tăng giá thép của Trung Quốc.
Triển vọng
Giá cả liên tục giảm thời gian qua cho đến hiện tại do các yếu tố kinh tế yếu, nhu cầu thấp trong khi nguồn cung tăng. Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc đã chậm lại trong nửa đầu năm nay, do đầu tư chậm lại và tiêu dùng yếu hơn, đe dọa nhu cầu năng lượng và tài nguyên.
Dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy GDP đạt tổng cộng 61.68 nghìn tỷ nhân dân tệ (8.49 nghìn tỷ USD) trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 6, tăng 5% so với một năm trước đó, dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy, chậm lại so với mức tăng trưởng 5.5% năm ngoái. Tăng trưởng trong quý thứ hai thấp hơn mục tiêu hàng năm là 5% ở mức 4.7%. Đầu tư ngày càng tồi tệ đã đè nặng lên tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.
Thị trường vào mùa thấp điểm tháng tháng 8 với cung cao – cầu thấp sẽ còn gây áp lực cho giá trong ngắn hạn. Mặc dù Bắc Kinh đã áp mức trần lên sản xuất thép, nhằm giảm cung và khí thải carbon nhưng tác động tới nguồn cung chưa đáng kể. Tiêu thụ thép tại Trung Quốc được dự báo tiếp tục co lại năm nay. Nguyên nhân là khủng hoảng bất động sản chưa chạm đáy và tăng trưởng nhu cầu cơ sở hạ tầng tại các địa phương chậm lại.
"Ngành thép Trung Quốc đang đối mặt với thách thức kép - năng lực sản xuất mạnh, nhưng nhu cầu lại yếu. Chìa khóa để giải quyết việc này là các hãng lớn phải ghìm sản xuất tương ứng với nhu cầu", Luo Tiejun - Phó chủ tịch Hiệp hội Sắt - Thép Trung Quốc (CISA) cho biết trong một sự kiện tuần trước tại phía nam Trung Quốc.
Bên cạnh đó, khả năng Fed cắt giảm lãi suất còn xa vời hơn khi số liệu lạm phát tăng trở lại. Thông tin này đã được thị trường đón nhận với những phản ứng khá thận trọng.
Các nhà máy thép Trung Quốc sẽ tăng sản xuất nhiều thép cuộn cán nóng thay vì thép cây do chênh lệch giá tăng và biên lợi nhuận của HRC được cải thiện hơn so với thép cây. Ngoài ra, xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tiếp tục trong nửa cuối năm để giảm áp lực nguồn cung trong nước. Và các nhà máy Trung Quốc cũng tiếp tục đối mặt với các biện pháp tự vệ toàn cầu, khả năng áp thuế từ Việt Nam trong tháng 9.
Cắt giảm sản xuất cũng đang mở rộng tại nhiều nhà máy và khu vực sau khi giá cả đã rơi xuống mức đáy nhiều năm qua, gây tổn thất tại các nhà máy. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa thể bù đắp nổi sự sụt giảm nhu cầu. Do đó, triển vọng tháng 8 tiếp tục ảm đạm và có thể kéo dài sang cả tháng 9.
Dự kiến, giá thép Trung Quốc tiếp tục giảm trong tháng 8 nhưng đà giảm chậm lại và có thể chạm đáy. Giá có thể nhích nhẹ về nửa cuối tháng 9-tháng 10 khi tiêu chuẩn thép cây mới bắt đầu làm tăng chi phí sản xuất và thời tiết cải thiện hỗ trợ nhu cầu cộng với khả năng giảm lãi suất của Fed. Mức phục hồi nhỏ với HRC SAE1006 Trung Quốc có thể đạt 500-510 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 9-tháng 10.