Châu Âu
HRC: HRC từ Đông Âu được cho là có sẵn ở Bắc Âu với giá gần 900 Euro/tấn được giao và lên đến 930-940 Euro/tấn, trong khi ở Ý, một nhà sản xuất đang chào ở mức 900-930 Euro/tấn được giao.
Nguyên liệu nhập khẩu vào Ý được báo cáo ở mức 840-850 Euro/tấn cfr từ Châu Á, không phải chịu thuế, với một số người bán phải đối mặt với mức thuế cao hơn mức này. Nhưng giá thầu dự kiến sẽ thấp hơn, vào khoảng 820 Euro/tấn cfr. Ở Bắc Âu, kỳ vọng của người bán là 840-890 Euro/tấn cfr không bao gồm thuế.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thép cây: Nhu cầu thép cây nội địa của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục yếu sau khi Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ cắt giảm lãi suất vào ngày 18/11 và đồng lira giảm giá thêm so với đô la Mỹ.
Các nhà sản xuất thép cây ở Istanbul và Biga đang giữ mức chào giá chính thức tương đương 750 USD/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm VAT, nhưng hôm nay sẵn sàng giảm giá xuống gần 740 USD/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm VAT.
Phế liệu: Giá nhập khẩu phế liệu của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi vào thứ Hai do áp lực giảm giá nhiều hơn từ đồng dolla mạnh hơn so với Euro.
Các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ đang đưa ra các dấu hiệu chào giá xung quanh mốc 500 USD/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ đối với HMS 1/2 80:20 cao cấp cho lô hàng vận chuyển vào tháng 1 của họ, được hỗ trợ bởi kỳ vọng rằng giá phế liệu trong nước của họ giao tháng 12 sẽ duy trì mạnh khi các cuộc thanh toán bắt đầu sau hai tuần nữa thời gian.
Trung Quốc
HRC: Giá thép cuộn cán nóng HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 50 NDT/tấn lên 4,700 NDT/tấn vào buổi sáng trước khi hạ nhiệt xuống 4,680 NDT/tấn vào buổi chiều trong bối cảnh giao dịch chậm lại và giá kỳ hạn nhẹ hơn. HRC kỳ hạn tháng 1 tăng 0.89% lên 4,405 NDT/tấn. Sự tăng điểm của thị trường kể từ thứ Sáu do kỳ vọng hỗ trợ thị trường bất động sản kéo dài đến cuối tuần nhưng đã suy yếu vào thứ hai.
Chào bán tăng lên 830-850 USD/tấn cfr Việt Nam đối với cuộn SAE1006 của Trung Quốc và 840 USD/tấn cfr ở Việt Nam đối với cuộn Ấn Độ, khiến người mua không có nhu cầu. Hầu hết người mua Việt Nam vẫn thận trọng vì họ không rõ liệu các nhà máy hay thương nhân sẽ giảm giá khi nhu cầu thép ở hạ nguồn suy yếu tại thị trường Việt Nam và khu vực.
Thép cây: Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải tăng 30 NDT/tấn lên 4,720 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 1 tăng 2.28% lên 4,300 NDT/tấn. Nhìn chung, giao dịch trên thị trường diễn ra chậm chạp. Một số thương nhân đã giảm giá 10-20 NDT/tấn vào buổi chiều để thúc đẩy bán hàng.
Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã cắt giảm giá xuất khẩu thép cây của mình xuống 10 USD/tấn xuống còn 740 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết do giá thép cây trong nước ở mức thấp hơn 705-715 USD/tấn trọng lượng lý thuyết. Một nhà máy khác ở miền đông Trung Quốc vẫn giữ giá xuất khẩu thép cây ở mức 760 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho lô hàng tháng 1, không nhận được yêu cầu nào từ người mua.
Thép cuộn dây: Một nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã giữ nguyên mức chào hàng xuất khẩu thép cuộn cacbon cao ở mức 835 USD/tấn fob cho lô hàng tháng 1 do giá trong nước có dấu hiệu ổn định. Mức khả thi đối với thép cuộn Indonesia đã giảm xuống còn 710 USD/tấn cfr Đài Loan vào cuối tuần trước và các nhà máy Đông Nam Á khó có thể tăng giá trong bối cảnh nhu cầu thép xây dựng trong khu vực yếu.
Phôi thép: Giá phôi thép xuất xưởng ở Đường Sơn tăng 50 NDT/tấn lên 4,250 NDT/tấn vào cuối tuần nhưng giảm 30 NDT/tấn xuống 4,220 NDT/tấn vào cuối buổi chiều hôm qua.
Than đá: Giá cấp một sang Trung Quốc giảm 4.40 USD/tấn xuống 444.35 USD/tấn trên cơ sở cfr, trong khi giá cấp hai giảm 2.15 USD/tấn xuống 396 USD/tấn cfr ở phía bắc Trung Quốc.
Giá than luyện cốc nội địa Trung Quốc tiếp tục giảm. Than luyện cốc có hàm lượng lưu huỳnh thấp loại cao nhất ở Anze, Sơn Tây, giảm thêm 200 NDT/tấn xuống còn 2,600 NDT/tấn, sau khi giá giảm tích lũy xuống 850 NDT/tấn vào tuần trước. Tuy nhiên, một số người bán than không phải của Úc lại có quan điểm tích cực về giá than luyện cốc trên biển.
Đài Loan
Thép cây: Với hai tâm lý là người mua và người bán, Feng Hsin Steel đã thông báo rằng họ sẽ giữ giá thu mua phế liệu trong nước ở mức 12,400-12,500 Đài tệ/tấn, tương đương 446-450 USD/tấn đối với HMS 1/2 80:20 của Mỹ. Feng Hsin cũng giữ nguyên giá thép cây của mình ở mức 21,700 Đài tệ/tấn (781 USD/tấn).
Quặng sắt: Giá quặng thị trường đường biển và ven cảng tăng mạnh, sau khi thép tăng do kỳ vọng chính sách tiền tệ hỗ trợ. Chỉ số quặng 62%fe tăng 4.45 USD/tấn lên 95.80 USD/tấn cfr Thanh Đảo. Chỉ số 65%fe tăng 3.35 USD/tấn lên 109.15 USD/tấn.
Chỉ số quặng 62%fe tại cảng tăng 35 NDT/tấn lên 609 NDT/tấn giao bằng xe tải tự do tại Thanh Đảo, với mức tương đương đường biển tăng mạnh 5.10 USD/tấn lên 87.10 USD/tấn cfr Thanh Đảo.
Việt Nam
Phế: Giá chào H2 của Nhật Bản đến Việt Nam ổn định ở mức 500-510 USD/tấn cfr vào thứ Hai. Một người bán cho biết họ có thể chấp nhận mức giá dưới 500 USD/tấn một chút, nhưng người mua không bị hấp dẫn bởi chào bán này và quyết định đợi thị trường chạm đáy. Mặc dù nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện có lượng hàng tồn kho thấp hợp lý do không có mặt trên thị trường giao ngay, nhưng người mua vẫn hạn chế mua phế liệu nhập khẩu trong bối cảnh thị trường giảm.
Nhật Bản
Phế: Giá H2 của Nhật Bản dao động trong một phạm vi rộng, do sự khác biệt về chất lượng và liệu các nhà cung cấp có thể bán cho người mua trong nước hay không. Giá H2 khả thi ở mức 49,500-51,000 Yên/tấn (434-447 USD/tấn) fob cho thị trường xuất khẩu và 53,000 Yên/tấn cho thị trường nội địa.