Giá thép Trung Quốc phân hóa tuần này do yếu tố nhu cầu trái ngược nhau trong và ngoài nước. Nhìn chung, giá vẫn đang biến động trong phạm vi hạn chế.
Thị trường trong nước
Yếu tố hỗ trợ:
_Indonesia đã đình chỉ xuất khẩu than trong tháng 1 để tăng cường cung cấp than nhiệt cho các đơn vị sản xuất trong nước, làm dấy lên lo ngại về nguồn cung nguyên liệu thô cho Trung Quốc từ cuối tháng 1 đến giữa tháng 2.
_Chỉ số quản lý sức mua (PMI) ngành thép của Trung Quốc đã tăng lên 38.7 trong tháng 12, từ mức thấp nhất trong 21 tháng vào tháng 11, khi các nhà máy nối lại hoạt động và giá thép tăng, phù hợp với hoạt động sản xuất nói chung đã tăng tốc trong tháng thứ hai. Chỉ số PMI cho lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc đứng ở mức 50.3 trong tháng 12, cao hơn 50.1 trong tháng 11.
_ Một số nhà máy thép ở Đường Sơn và Thiên Tân dự kiến sẽ cắt giảm 50% sản lượng thép từ ngày 28/1 đến ngày 22/2 để đảm bảo chất lượng không khí tốt trong thời gian diễn ra Thế vận hội mùa đông ở Bắc Kinh. Tin tức về các hạn chế cũng nâng cao tâm lý.
_ Bốn nhà sản xuất than cốc luyện kim ở Thiểm Tây và Sơn Tây đã tăng giá than cốc lên 200 nhân dân tệ/tấn (31 USD/tấn), cho rằng nguồn cung than thắt chặt và phí vận chuyển tăng từ Covid đang làm tăng chi phí sản xuất.
Yếu tố áp lực:
_Giao dịch trên thị trường giao ngay không có dấu hiệu cải thiện. Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất đã tăng 100,000 tấn trong tuần này, so với mức tăng 14,000 tấn của tuần trước. Dự trữ thép cây có khả năng tăng nhiều hơn trong những tuần tiếp theo, với việc người mua rút khỏi thị trường cho những ngày nghỉ Tết âm lịch.
_Nhu cầu đường biển yếu, thép Trung Quốc không có cơ hội cạnh tranh với giá quá thấp từ Ấn Độ trên thị trường Đông Nam Á.
Tại thị trường trong nước, giá giao ngay tăng trưởng tuần này theo giá kỳ hạn, nguyên liệu thô tăng và các hạn chế sản xuất hỗ trợ tâm lý. So với tuần trước, giá thép cây nhích 20 NDT/tấn lên 4,720 NDT/tấn xuất xưởng có thuế tại Thượng Hải. Hợp đồng thép cây kỳ hạn tăng lên 4,494 NDT/tấn, tăng hơn 200 NDT/tấn so với tuần trước.
HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 100 NDT/tấn lên 4,940 NDT/tấn xuất xưởng có thuế.
Giá tăng song nhu cầu dự trữ vẫn chậm so với mọi năm vì mặt bằng giá cao.
Thị trường xuất khẩu
Một số nhà máy Trung Quốc đã trở lại chào bán trên thị trường đường biển sau thời gian dài vắng bóng. Tuy nhiên, thương mại đường biển vẫn bế tắc do việc các nhà máy Trung Quốc giảm giá vẫn không có ý nghĩa gì với giá thấp từ Ấn Độ.
Giá chào của các nhà máy thép cây ổn định vào tầm 760 USD/tấn fob giao tháng 2.
Đối với HRC, các nhà máy và thương nhân Trung Quốc giữ nguyên giá chào bán, với lý do thị trường nội địa ổn định. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc cho biết rằng những người mua hạn chế bằng đường biển có thể quan tâm đến việc đặt hàng với giá 750 USD/tấn fob Trung Quốc, mặc dù không nhận được hồ sơ dự thầu nào.
Chào hàng của Trung Quốc không hấp dẫn người mua Việt Nam do giá thép cuộn của Ấn Độ thấp hơn nhiều. Một nhà máy Ấn Độ được cho là đã bán 10,000 tấn SS400 với giá 755 USD/tấn cfr cho Việt Nam vào tuần trước, cho lô hàng tháng 2 hoặc tháng 3. Mức đó không có cơ hội cho bất kỳ giao dịch thép cuộn nào của Trung Quốc sang Việt Nam, vì không có nhà máy hoặc thương nhân nào muốn bán ở mức đó.