Giá thép biến động tăng tuần này nhờ kỳ vọng nhu cầu tốt hơn trong mùa cao điểm tháng 9, tồn kho tiếp tục giảm song đà giảm chậm lại về cuối tuần.
Yếu tố hỗ trợ:
_Các nhà máy thép đã nhận được đơn đặt hàng từ các thương nhân và có xu hướng giữ giá ổn định trong thời gian tới.
_Tồn kho do các nhà máy và thương nhân nắm giữ dự kiến sẽ giảm thêm, và một số nhà máy thép ở các khu vực phía tây nam và phía đông đã phải tạm ngừng hoạt động vì phân phối điện.
Yếu tố áp lực:
_ Tồn kho thép cuộn do các thương nhân và nhà máy Trung Quốc nắm giữ đã giảm 70,000 tấn trong tuần này, chậm hơn mức giảm hơn 100,000 tấn của tuần trước và sản lượng của các nhà máy tăng nhẹ trong tuần. Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất đã giảm 153,000 tấn trong tuần này so với mức giảm 460,000 tấn của tuần trước.
_Thị trường lo lắng nguồn cung thép cây tăng do các nhà máy lò điện hồ quang dự kiến sẽ tiếp tục sản xuất do tình trạng thiếu điện được giảm bớt do nhiệt độ giảm.
Thị trường giao ngay
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải cuối tuần ngang bằng mức tuần trước ở mức 4,100 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 10 nhích nhẹ 10 NDT/tấn lên 4,052 NDT/tấn. Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất giảm 450,000 tấn tuần này so với mức giảm hàng tồn kho của tuần trước là 370,000 tấn. Tồn kho giảm hỗ trợ tâm lý thị trường vào cuối tuần với các nhà giao dịch giữ giá chào bán tại mức 4,100-4,120 NDT/tấn.
Giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 70 NDT/tấn lên 3,970 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 10 tăng lên 4,000 NDT/tấn.
Thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu nửa đầu tuần có cải thiện nhưng vẫn chậm, do nhu cầu từ các khách hàng nước ngoài yếu. Tuy nhiên, kỳ vọng về tháng 9-tháng 10 tăng trưởng hỗ trợ giá nhích nhẹ, với người mua tăng giá dự thầu. Về cuối tuần, giá nội địa giảm kéo theo giá xuất khẩu giảm nhẹ.
Thép cây xuất khẩu chào ở mức 630 U USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho các lô hàng tháng 9 và tháng 10.
Những người mua từ các quốc gia khác, đặc biệt là ở Đông Nam Á, bày tỏ không quan tâm đến việc mua thép cuộn của Trung Quốc vì họ có thể nhận được hàng hóa với giá thấp hơn từ các quốc gia khác. Trong khi đó, các nhà máy và thương nhân Trung Quốc không muốn giảm giá do có sự chênh lệch rộng rãi giữa chào hàng và giá thầu, cũng như giá bán trong nước tương đối ổn định.
590-595 USD/tấn cfr Việt Nam là mức thị trường chính đối với người mua Việt Nam cho các giao dịch, thấp hơn nhiều so với mức chào bán của Trung Quốc ở mức và trên 615 USD/tấn cfr Việt Nam.