Giá thép Trung Quốc vẫn trên đà giảm nhưng phạm vi biến động hẹp do tồn kho tăng cho thấy nhu cầu hạ nguồn yếu kém, và triển vọng giá giảm ngắn hạn.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Giá thép cây giao ngay tại Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn so với tuần trước xuống còn 3,980 NDT/tấn. Thép cây kỳ hạn tháng 10 phục hồi nhẹ 28 NDT/tấn lên 3,914 NDT/tấn.
Tồn kho thép cây hàng tuần của các công ty thương mại và nhà sản xuất giảm 220,000 tấn so với mức giảm hàng tồn kho của tuần trước ở mức 100,000 tấn. Nhưng sự sụt giảm là do sản lượng thấp hơn của các nhà máy và số lượng đặt hàng ít từ các công ty thương mại, chứ không phải là dấu hiệu cho thấy nhu cầu mạnh mẽ từ người dùng hạ nguồn.
Hai nhà sản xuất ở Sơn Tây đã đóng cửa ba lò cao từ ngày 19-21/4, với ngày bắt đầu chưa được ấn định. Điều này sẽ cắt giảm sản lượng kim loại nóng hàng ngày khoảng 4,000-5,000 tấn. Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cho biết sản lượng thép cây của Trung Quốc tăng 12.1% so với một năm trước đó lên 23.28 triệu tấn vào tháng trước.
Hiện tại, thị trường thép đang trong tình trạng cung cầu yếu, các doanh nghiệp lò điện bắt đầu tăng sản lượng, nhu cầu kém, ngoại trừ phía Đông Trung Quốc, nhu cầu vẫn phải chịu các vấn đề về vốn và nhu cầu đầu cơ.
Nhìn về triển vọng thị trường, mùa cao điểm của nhu cầu thép vẫn chưa kết thúc và dự kiến nhu cầu thép sẽ phần nào phục hồi, tuy nhiên, hiệu suất thực tế của nhu cầu bổ sung hạ nguồn trong tháng 4 là yếu, và dự kiến giá ngắn hạn sẽ dao động yếu.
Thép công nghiệp
Cuộn cán nóng
HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm 20 nhân dân tệ/tấn xuống 4,150 NDT/tấn vào ngày 20/4. HRC kỳ hạn tháng 10 tăng 16 NDT/tấn lên 3,973 NDT/tấn. Tâm lý thị trường yếu đi khi hàng tồn kho HRC do các thương nhân và nhà máy nắm giữ tăng hơn 40,000 tấn, nhanh hơn mức tăng hơn 30,000 tấn vào tuần trước.
Tồn kho tăng tuần thứ hai liên tiếp mặc dù các nhà máy cắt giảm sản xuất, cho thấy nhu cầu giao ngay yếu. Những người tham gia cho biết cần cắt giảm sản lượng đáng kể hơn để hỗ trợ giá.
Cuộn cán nguội
Giá chủ yếu theo đà giảm, không khí giao dịch trên thị trường tương đối vắng vẻ. Nhu cầu thị trường hiện tại vẫn còn yếu, thị trường có tâm lý chờ đợi mạnh mẽ và mức độ sẵn sàng mua hạ lưu tương đối thấp.
Giá trung bình của CRC 1.0*1250*2500 trong tuần này là 4,710 NDT/tấn, giảm 15 NDT/tấn so với tuần trước.
Thị trường xuất khẩu
Một nhà máy lớn Trung Quốc giảm giá chào bán HRC xuống 30-40 USD/tấn so với tuần trước do nhu cầu chậm. Một số công ty thương mại đã giảm giá bán xuống còn 600-610 USD/tấn cfr Việt Nam cho HRC SS400 để thu hút lực mua, tầm khoảng 590-600 USD/tấn fob Trung Quốc. Người mua Việt Nam có thể chấp nhận dưới 590 USD/tấn cfr Việt Nam vì một thỏa thuận đã được ký kết ở mức đó trong tuần này. Người mua từ các quốc gia khác có thể chấp nhận tối đa 610 USD/tấn fob Trung Quốc để mua hàng cho nhu cầu tức thời.
Trong khi đó, chào giá cho HRC SAE1006 Trung Quốc từ các công ty thương mại giảm xuống 610-630 USD/tấn cfr, mất 25-35 USD/tấn so với tuần trước. Giá thầu cao nhất là 630 USD/tấn cfr Việt Nam cho thép cuộn loại SAE từ nhà máy.
Quặng sắt
Giá quặng sắt vận chuyển bằng đường biển tiếp tục giảm nhẹ tuần này do việc bảo trì theo mùa của các nhà máy thép gây áp lực lên nhu cầu quặng sắt. Chỉ số quặng 62%fe giảm 2.80 USD/tấn xuống còn 116.85 USD/tấn cfr Thanh Đảo.
Một số nhà máy thép ở Hà Bắc, Giang Tô và Sơn Tây đã bắt đầu bảo trì theo mùa đối với lò cao và dây chuyền cán, làm giảm nhu cầu quặng sắt. "Một số người tham gia lo lắng rằng nhiều nhà máy thép sẽ triển khai các công việc bảo trì do biên lợi nhuận thép thu hẹp và triển vọng nhu cầu đối với quặng sắt giảm sút", một nhà quản lý nhà máy có trụ sở tại Hà Bắc cho biết. "Sản lượng gang của Trung Quốc đã đạt đỉnh và có khả năng giảm trong tuần này hoặc tuần tới", một giám đốc nhà máy khác ở Hà Bắc cho biết.
“Thị trường đường biển trầm lắng sau khi các lô hàng đường biển có đóng ca trước đó được bán lại trên thị trường thứ cấp gần đây, và sự sụt giảm của thị trường giấy cũng khiến những người tham gia chấp nhận quan điểm chờ đợi,” một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết.
Dự kiến giá quặng sắt sẽ tiếp tục giảm về cuối tháng 4, do các kiểm soát giá Chính phủ, giá thép giảm. Giá giảm về 110 USD/tấn cfr Thanh Đảo.
Triển vọng
Triển vọng giá cả dự kiến theo xu hướng giảm nhẹ đến hết tháng 4, sau đó biến động tăng giảm đan xen nhưng sẽ phục hồi nhẹ vào tháng 5-tháng 6, lý do:
Yếu tố hỗ trợ:
_Nguồn cung giảm từ các chính sách cắt giảm sản xuất.
_Chi phí đầu vào cao từ quặng sắt, than đá, năng lượng.
_Yếu tố vĩ mô tốt.
_Xu hướng tăng giá toàn cầu.
_Nhu cầu phục hồi vào Q2.
Yếu tố áp lực:
_ Không có chính sách kích thích mới nào cho ngành bất động sản, trọng tâm vẫn là rủi ro tài chính cho các công ty bất động sản.
_Bất ổn từ chiến tranh Nga - Ukraina.
_ Nhu cầu chậm hơn kỳ vọng do mưa tại phía bắc và đông cản trở xây dựng.
_ Cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc sẽ tăng cường kiểm tra hành vi thao túng giá và tích trữ bất hợp pháp nguyên liệu thô.
Giá dự kiến biến động tăng nhẹ trong tháng 5-tháng 6, phạm vi trong 30-50 USD/tấn trong 2 tháng tới với chào giá HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam đạt khoảng 650-680 USD/tấn cfr.
Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.
Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.
Lưu ý: Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.