Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 44/2022: Dự báo xu hướng thép TQ

 

Tiếp nối tháng 9, thị trường thép tháng 10 tiếp tục biến động đi xuống, mặc dù truyền thống là “tháng 9 vàng tháng 10 bạc”. Kết thúc Đại Hội Đảng lần thứ 20 đã không mang lại nhiều kết quả khả quan cho thị trường như kỳ vọng với sự nhấn mạnh chính sách Không covid tiếp tục đè nặng thị trường. Áp lực tồn kho gia tăng sau lễ, cộng thêm nhiều dữ liệu kinh tế yếu kém, nhu cầu đầu cơ giảm và tiêu thụ giao ngay chậm, sự bi quan của thị trường gia tăng và giá thép cho thấy một sự suy giảm nhanh chóng. Triển vọng cuối năm vẫn cho thấy xu hướng ảm đạm khi vào mùa trái vụ truyền thống

Thị trường thép nội địa

Thép xây dựng

Tâm lý thị trường suy yếu, giá cả đi xuống trong tháng 10. Tồn kho gia tăng, nhu cầu chậm làm trầm trọng thêm lo ngại của thị trường về nhu cầu thị trường trong tương lai. Chi phí nguyên liệu thô cũng giảm làm niềm tin thị trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng và giao dịch trở nên ảm đạm. Trong khi đó, hoạt động sản xuất trở lại ổn định tăng trưởng, trong khi nhu cầu thấp hơn dự kiến, khiến cung vượt cầu.

Các số liệu công bố yếu kém ​​và thiếu thông tin tích cực rõ ràng sau cuộc họp lớn, tâm lý vĩ mô kém, tâm lý thị trường sụp đổ, và giá giảm nhanh hơn.

Dữ liệu bất động sản tổng thể vẫn là một lực cản. Tốc độ giảm diện tích xây dựng tiếp tục mở rộng, diện tích khởi công mới giảm còn tương đối lớn; không có sự cứu trợ đáng kể nào về nguồn vốn, điều này tiếp tục kìm hãm nhu cầu bất động sản. Do đó, vẫn có thể thấy từ dữ liệu bất động sản xây dựng cơ sở hạ tầng, áp lực lên bất động sản không thay đổi, trong khi sự phục hồi ổn định của xây dựng cơ sở hạ tầng đã hỗ trợ mạnh mẽ cho nhu cầu vật liệu xây dựng, và nhu cầu tổng thể sẽ vẫn yếu trong ngắn hạn.

Giá thép cây giao ngay tính đến ngày 31/10 đã giảm 350 NDT/tấn so với cuối tháng 9 xuống .

Cuộn cán nóng

Thị trường nói chung trầm lắng, việc giải phóng nhu cầu hạ nguồn không đủ, lượng hàng tồn kho giảm chậm, giá thị trường biến động đi xuống.

Do thiếu các chính sách thiếu thuận lợi và kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang sẽ tăng lãi suất, tâm lý bi quan trên thị trường thép cuộn nóng tăng lên, giá cả giảm diện rộng. Nhìn chung, mặt hàng thép cuộn cán nóng vẫn cho thấy sự mâu thuẫn giữa sản lượng cao và nhu cầu thấp.

Trong tháng 10, chỉ số PMI sản xuất Trung Quốc là 49.2, giảm 0.9% so với tháng trước. Sau khi tăng trong hai tháng liên tiếp, nó đã giảm trở lại, cho thấy xu hướng của chỉ số này dao động và đà phục hồi của nền kinh tế vẫn cần được ổn định hơn nữa. Từ góc độ ngành, 11 trong số 21 ngành được khảo sát nằm trong phạm vi mở rộng, và lĩnh vực sản xuất nhìn chung là ổn định.

Mức lỗ lý thuyết của các doanh nghiệp thép HRC trong nước là 369 NDT/tấn, tăng 197 NDT/tấn so với cuối tháng 9. Giá nguyên liệu thô cao như quặng sắt và than cốc khiến chi phí sản xuất của các nhà máy thép cao, trong khi giá HRC giảm nhanh, khiến thua lỗ các nhà máy tăng theo.

Sản lượng HRC tại các nhà máy thép tăng trong tháng 10 và tồn kho tại nhà máy tăng nhẹ. Tính đến cuối tháng 10, sản lượng của 35 nhà máy HRC trong nước là 2,593,800 tấn, tăng 48,800 tấn so với cuối tháng 9.

Tồn kho HRC của 35 công ty thép điển hình trên cả nước là 643,500 tấn, tăng 12,000 tấn so với cuối tháng 9.

Tính đến cuối tháng 10, giá HRC Q235B giao ngay tại Thượng Hải cũng mất 350 NDT/tấn so với cuối tháng 9 xuống 3,610 NDT/tấn.

Cuộn cán nguội

Trong tháng 10, giá cán nguội cũng theo xu hướng giảm. Một số nhà máy thép trong tháng 10 đã đại tu, nhưng sản lượng nhìn chung vẫn tăng, xuất hiện áp lực nguồn cung, và tồn kho thép cũng tăng.

Giá cán nguội loại 1.0mm trung bình trên toàn quốc là 4,315 NDT/tấn, giảm 152 NDT/tấn so với cuối tháng 9.

Vào tháng 10, mức chênh lệch cuộn cán nóng và cán nguội mở rộng, tính đến cuối tháng 10, chênh lệch hai loại là 629 NDT/tấn, tăng so với tháng trước 158 NDT/tấn. Trong khi đó, chênh lệch với  thép mạ lại giảm nhẹ 11 NDT/tấn xuống 312 NDT/tấn.

Tính đến ngày 28/10, tồn kho thép cán nguội trong nước giảm so với tháng trước, nhưng cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện lượng thép cuộn cán nguội trong nước là 2,025,000 tấn, giảm 18,400 tấn so với tháng trước và tăng 97,200 tấn so với cùng kỳ năm ngoái.

Thị trường xuất khẩu

Ảnh hưởng bởi sự suy yếu trong nước, cạnh tranh ngoài nước và nhu cầu đường biển chậm, giá xuất khẩu thép cây cũng giảm trong tháng 10. Các nhà sản xuất lớn chào giá danh nghĩa ở mức 550-570 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết, với một số người bán khống chào giá 530-540 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Chào giá đã giảm khoảng 50 USD/tấn so với cuối tháng 9.

Chào giá HRC SS400 xuất khẩu giảm từ các thương nhân và nhà máy Trung Quốc xuống 530 USD/tấn fob Trung Quốc, từ mức 560-570 USD/tấn cuối tháng 9. Một số thương nhân thậm chí đã giảm giá bán xuống 505-520 USD/tấn cfr Việt Nam đối với HRC SS400 của Trung Quốc, tầm khoảng 490-505 USD/tấn fob Trung Quốc nhưng cũng không thu hút vì những người mua trên đường biển đã bị sốc bởi sự sụt giảm nhanh chóng ở Trung Quốc.

Tương tự, giá chào HRC SAE1006 về Việt Nam giảm cùng mức xuống còn 540 USD/tấn cfr Việt Nam nhưng không thu được bất kỳ giá thầu nào.

Quặng sắt

Theo xu hướng giá thép, giá quặng sắt cũng giảm trong tháng 10 do nhu cầu tiêu thụ quặng giảm khi các nhà máy cắt giảm sản xuất và bảo trì khi nhu cầu tháng 10 bạc không được như kỳ vọng, khiến các nhà máy thép thua lỗ.

PMI thép của Trung Quốc giảm 2.3% xuống 44.3 trong tháng 10 so với tháng 9. Một số nhà máy ở miền bắc Trung Quốc, bao gồm cả ở các tỉnh Sơn Tây và Hà Bắc, đã bắt đầu bảo trì và ngừng hoạt động để cắt giảm tổn thất thép.

Tỷ suất lợi nhuận âm khiến các nhà máy thép Trung Quốc phải kiềm chế sản lượng. "Không có dấu hiệu tăng giá nào hỗ trợ quặng sắt trong ngắn hạn, vì thép lỗ ở mức 100-200 NDT/tấn và lỗ sẽ nhiều hơn dựa vào nguyên liệu thô được mua trước đó", một giám đốc nhà máy Hebei cho biết.

Nhu cầu thép toàn cầu và nhà sản xuất thép hàng đầu đều suy yếu trong tháng 10, nền kinh tế Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi các hạn chế COVID-19 và sự sụt giảm bất động sản, vì vậy tâm lý thị trường suy yếu.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết họ không mong đợi một giải pháp nhanh chóng đối với tình trạng bất động sản ở Trung Quốc. Việc đóng cửa COVID-19 mới ở Trung Quốc và kỳ vọng về việc Mỹ tăng lãi suất và dấu hiệu tăng nguồn cung quặng sắt cũng tạo thêm áp lực lên giá.

Chỉ số quặng 62%fe đã giảm khoảng 17 USD/tấn trong tháng xuống 80.40 USD/tấn cfr Thanh Đảo, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2020.

Chúng tôi không kỳ vọng nhu cầu thép sẽ cải thiện rõ ràng trong quý cuối năm nay và dựa trên kỳ vọng về một đợt tăng lãi suất khác của Mỹ, một thương nhân ở miền Bắc Trung Quốc cho biết về triển vọng cuối năm. Giá dự kiến tiếp tục giảm về cuối năm, xuống phạm vi 75 USD/tấn cfr Trung Quốc.

Triển vọng thị trường thép

Với kỳ vọng lãi suất nước ngoài tăng mạnh, áp lực kinh tế trong nước sẽ tiếp tục khó cải thiện, cộng với việc kiểm soát dịch bệnh chưa chắc chắn, ... khiến tâm lý thị trường kém và giá bị kìm hãm.

Trong tháng 11, các nhà máy sẽ tăng cường bảo trì và giảm sản xuất, song tiêu thụ chậm vì bước vào mùa tiêu thụ thấp điểm với điều kiện thời tiết xấu hơn làm cản trở xây dựng sẽ làm gia tăng tồn kho và xu hướng cung cầu tương đối lỏng lẻo.

Trong khi đó, dịch bệnh đang lan rộng. Chính phủ nước này vẫn kiên quyết với chính sách không covid và sẽ còn đóng cửa các khu vực để tránh lan rộng, hạn chế giao thông và kìm hãm nhu cầu thép.

Với tình hình hiện tại, các nhà máy thép chỉ có hai lựa chọn bị động là giảm giá; hoặc giảm sản lượng và giữ giá.

Nhìn chung, với gia tăng của áp lực tích lũy và chi phí nguyên liệu thô giảm, giá thép trong tháng 11 có thể chịu nhiều áp lực và đi xuống trước khi có thể phục hồi nhẹ và diễn biến ổn định hơn vào tháng 12, sau quá trình cắt giảm sản xuất mở rộng trong tháng 11.

Phạm vi giá giao ngay trong nước dự kiến dao động từ 3,550-3,750 NDT/tấn cho thép cây và HRC.

Chào giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam dao động 530-550 USD/tấn cfr Việt Nam.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.