Giá thép cuộn cán nóng kỳ vọng duy trì ở mức cao khi Trung Quốc và Australia tiếp tục căng thẳng thương mại, gây sức ép lên nguồn cung quặng sắt.
Việc thiếu hụt nguồn cung toàn cầu trầm trọng sẽ giúp các công ty thép Việt Nam tiếp tục hưởng lợi từ xuất khẩu, đặc biệt từ thị trường châu Âu và Mỹ.
Kim ngạch xuất khẩu quý I tăng 12,5% so với cùng kỳ 2021
Theo thông tin từ Hiệp hội Thép Việt Nam, trong tháng 3, xuất khẩu thép thành phẩm ở mức 956.000 tấn, tăng 75,4% so với tháng trước. Trị giá xuất khẩu đạt 908,6 triệu USD, tăng 71,9% so với tháng 2 và tăng 1,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính chung quý I, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 2,3 triệu tấn thép, giảm 22,2% so với cùng kỳ năm trước nhưng giá trị là 2,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm năm ngoái. Thị trường chủ yếu trong quý I là ASEAN (40,6%), EU (19,3%), Mỹ (8,3%)).
Bốn điểm tích cực của ngành thép trong năm 2022
Trong báo cáo Triển vọng ngành thép và tôn mạ của Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam (MASVN), các chuyên gia đánh giá tích cực cho ngành thép trong năm nay.
Thứ nhất, giá thép cuộn cán nóng (HRC) kỳ vọng duy trì ở mức cao khi Trung Quốc và Australia tiếp tục căng thẳng thương mại, gây sức ép lên nguồn cung quặng sắt.
Do ảnh hưởng bởi giá quặng sắt và than cốc, giá HRC giao dịch tại sàn Thượng Hải trong giai đoạn tháng 6/2021 lên đến 1.035 USD/tấn, tăng 130% so với lúc đáy 463 USD/tấn năm 2020. Tuy nhiên, sang quý IV/2021, nhu cầu đầu cơ HRC đã sụt giảm khi chính phủ Trung Quốc yêu cầu các nhà máy thép giảm sản lượng để nhường lượng than cho nhu cầu điện cao điểm mùa đông cũng như hạn chế ô nhiễm môi trường, giá HRC đã điều chỉnh và cân bằng quanh mức 760 USD/tấn. Với áp lực từ giá than và giá quặng sắt, MASVN dự phóng giá HRC Thượng Hải sẽ quay lại mức 850 USD/tấn trong quý II/2022.
Diễn biến giá HRC trên sàn Thượng Hải, Trung Quốc. |
Nhìn lại năm 2021, các thị trường Bắc Mỹ hay châu Âu mở cửa lại khiến nền kinh tế từ quý III/2021 đã thúc đẩy nhu cầu thép nhiều loại thép, trong đó có HRC. Giá HRC tại thị trường Bắc Mỹ tăng 100% và tạo đỉnh ở mức 1.920 USD/tấn vào tháng 8/2021.
Nhờ sự tăng giá nhanh chóng của HRC trong năm 2021, các công ty ngành thép đều gia tăng biên lợi nhuận gộp 3-6% trong năm 2021 nhờ chênh lệch giá nguyên liệu đầu vào.
Thứ hai, dự phóng năm 2022 sản lượng cả ngành đạt 33.3 triệu tấn, tăng trưởng 8%. Trong năm 2021, sản lượng thép toàn ngành đạt 30.8 triệu tấnm tăng 32,5% so với năm trước đó. Trong đó, sản lượng xuất khẩu đạt 7.5 triệu tấn, tăng 66% so với 2020, tương ứng với tổng giá trị xuất khẩu đạt 12 tỷ USD, cao nhất trong lịch sử. Trong mảng tôn mạ, sản lượng toàn ngành 2021 đạt 6 triệu tấn, tăng 52,5% so với năm 2020, trong đó xuất khẩu chiếm 45%, tương đương 3,4 triệu tấn, tăng 133% so với năm trước đó.
Theo MASVN, cầu ngành thép vốn liên quan trực tiếp đến ngành bất động sản. Tuy nhiên, do diễn biến dịch Covid-19 khiến ngành bất động sản không thực sự sôi động trong năm 2021. Điểm sáng nhất của ngành giúp cho sản lượng không bị suy giảm đến từ việc kích cầu đầu tư công của Chính phủ cũng như nhu cầu rất lớn đến từ châu Âu và Mỹ.
Trong năm 2022, MASVN cho rằng ngành bất động sản lẫn xây dựng sẽ hồi phục, qua đó thúc đẩy sản lượng toàn ngành thép. Tuy nhiên, sản lượng sẽ khó có tăng trưởng đột biến như năm 2021 khi hầu hết các công ty thép nội địa đã chạy hết công suất và chưa có những đại dự án mới đưa vào. Do đó, MASVN dự đoán sản lượng thép năm nay sẽ đạt 33.3 triệu tấn, tăng 8% so với 2021, riêng sản lượng xuất khẩu đạt 8,7 triệu tấn - tăng 15% so với năm ngoái.
Thứ ba, cơ hội sẽ mở ra trong mảng xuất khẩu trong năm nay. MASVN cho rằng thị trường xuất khẩu sẽ tiếp tục rộng mở trong năm nay dưới tác động từ chiến tranh Nga – Ukraine. Hiện nay, Nga xếp thứ 2 về xuất khẩu thép vào EU, với tỷ trọng 14,1% thép dẹt và 19% thép dài. Ukraine chiếm 8% thép dẹt và 7,4% thép dài, còn Belarus chiếm 14,4% thép dài. Việc thiếu hụt nguồn cung trầm trọng sẽ giúp các công ty thép Việt Nam sẽ tiếp tục hưởng lợi từ xuất khẩu, đặc biệt từ thị trường châu Âu và Mỹ.
Bên cạnh đó, trong cả năm 2021, các chính sách thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam không thay đổi đáng kể, vẫn giữ nguyên ở mức rất thấp hoặc không bị áp dụng. Ngoại trừ một số sản phẩm xuất khẩu sang Thái Lan hay Australia, vốn chiếm dưới 5% tổng sản lượng xuất khẩu thép, mảng xuất khẩu của ngành thép hứa hẹn tiếp tục một năm 2022 tươi sáng phía trước.
Một số rủi ro mà ngành thép có thể gặp phải
Tuy nhiên, MASVN cũng chỉ ra một số rủi ro mà ngành thép có thể gặp phải trong năm nay.
Thứ nhất là rủi ro về biến động giá nguyên vật liệu. Ngành thép và tôn mạ có rủi ro lớn do chi phí nguyên liệu chiếm 65-75% giá thành sản xuất. Đặc biệt trong ngành tôn mạ, giá HRC chiếm hơn 80% chi phí nguyên liệu đầu vào, khiến lợi nhuận của cả ngành biến động rất lớn theo HRC.
Thứ hai, giá than cốc đã tăng rất mạnh cùng với giá quặng sắt liên tục có xu hướng tăng giá. Trong bối cảnh giá bán tăng cao có thể khiến thị trường xây dựng sẽ suy giảm tốc độ tăng trưởng, qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng.
Thứ ba, rủi ro về thuế chống bán phá giá thị trường xuất khẩu. Ngành thép hiện nay xuất khẩu (chiếm 19,6% tổng sản lượng bán hàng) sang các nước như Trung Quốc, EU, Mỹ …. Vì vậy, vẫn tồn tại rủi ro về việc chính sách thuế quan sẽ thay đổi trong bối cảnh chiến tranh thương mại vẫn diễn ra giữa Trung Quốc và các nước.
Bên cạnh đó là rủi ro về hạn chế xuất khẩu. Hiện tại tháng 3/2022, giá thép xây dựng đã tăng lên mức VND 18.3 triệu/tấn. MASVN cho rằng nếu giá vật liệu xây dựng ở mức cao, một số dòng thép sẽ bị hạn chế xuất khẩu. Trong đó, phôi thép xây dựng là dòng sản phẩm sẽ đối diện với nguy cơ này đầu tiên.
Nguồn tin: NDH