Mặc dù có nhiều triển vọng sáng sủa nhưng kinh tế thế giới năm 2011 sẽ vẫn còn đậm nét nhiều mối lo. Về tổng thể, nền kinh tế thế giới có thể tăng trưởng chậm hơn vào năm tới, dù không có nguy cơ xảy ra suy thoái kép.
Còn đó nhiều mối lo
Theo báo cáo sơ bộ của Liên hợp quốc, kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng khoảng 3,1% trong năm 2011 và 3,5% trong năm 2012, và còn lâu mới đủ để khôi phục số việc làm bị mất trong cuộc khủng hoảng kinh tế.
Việc các nước không phối hợp tốt chính sách tiền tệ là một trong các nguyên nhân sẽ khiến các thị trường trở nên bất ổn hơn. Tình trạng thiếu việc làm là trở ngại lớn nhất cho sự phục hồi kinh tế. Trong trường hợp đó, châu Âu, Nhật Bản và Mỹ có thể phải gánh chịu một cuộc suy thoái kép. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo các nền kinh tế của 33 nước thành viên thuộc tổ chức này sẽ tăng trưởng tổng cộng 2,8% trong năm 2010 sau khi giảm -3,4% năm 2009, và tăng trưởng của OECD năm 2011 là 2,3%. OECD cũng cảnh báo sự mất cân bằng thương mại ngày càng lớn có thể là một vấn đề, đặc biệt nếu các nước bắt đầu theo đuổi nhiều biện pháp bảo hộ thương mại.
Nhiều nước vẫn đang còn ở “mức báo động đỏ” về một số nhân tố có thể cản trở tiến trình phục hồi và đặt ra những thách thức lớn về mặt xã hội như tỷ lệ thất nghiệp cao (khoảng 8 - 10%), tiền lương thấp và mức tăng thu nhập chậm, nhu cầu tiêu dùng sẽ chưa tăng nhanh. Do thua lỗ lớn, các ngân hàng sẽ phải cắt giảm tín dụng và cho vay. Chính sách thắt chặt tiền tệ và các quy định mới về tài chính, như yêu cầu vốn cao hơn, nếu được áp dụng sớm có thể gây khó khăn cho khu vực ngân hàng. Phần lớn các nền kinh tế phát triển và một số quốc gia mới nổi vẫn còn phải đối mặt với sự cần thiết phải điều chỉnh mạnh về cơ cấu và cả chính sách. Bản thân IMF cũng đang kêu gọi các thành viên cần áp dụng các chính sách cân bằng để duy trì và thúc đẩy đà phục hồi kinh tế, cũng như cần có các biện pháp phối hợp để giải quyết những thách thức kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, nhiều cảnh báo khác cũng đang được nhắc tới, nhất là một số nền kinh tế khu vực đồng euro vẫn chật vật đối phó với thâm hụt tài chính và gánh nặng nợ nần.
Nợ đang trở thành quá tải đối với các nền kinh tế lớn, trong đó có cả Mỹ và Anh (Thị trưởng thành phố New Jersey Chris Christie cho biết, nguy cơ vỡ nợ của thành phố này là bởi “chúng ta chi tiêu quá nhiều, chúng ta tiêu tiền mà chúng ta không có và vay tiền một cách điên cuồng”. Nhiều bang và thành phố của Mỹ đã bội chi so với tiền thuế họ thu được và đang phải đối mặt với lỗ thủng 1.000 tỉ USD trong quỹ trợ cấp của địa phương. Khủng hoảng nợ đang chạm tới tận các cơ quan công quyền địa phương thay vì cấp bang và thành phố như trước đây).
Viện Tài chính Quốc tế ước tính trong năm 2011, Mỹ cần phải vay thêm hơn 4.000 tỷ USD, châu Âu phải vay thêm tổng cộng 3.000 tỷ USD. Nhật Bản - nước đang mắc nợ cao nhất và có nợ ngắn hạn nhiều nhất thế giới - sẽ cần phải huy động thêm một lượng vốn chiếm hơn 50% GDP trong năm tới.
Các nền kinh tế mắc nợ nhiều sẽ buộc phải tính tới nhiều giải pháp, như tăng thuế, thay đổi cơ cấu nợ, giảm chi tiêu công hoặc quay trở lại với các chính sách tài chính bền vững hơn. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch cũng là vấn đề cần theo dõi, nhất là khi tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục ở mức cao tại các nước. Cuộc chiến giảm giá các đồng tiền chủ chốt và sự bùng phát giá vàng thế giới với những “siêu kỷ lục” và các động thái thăng trầm đầy kịch tính cũng là những “điểm đen” trên bản đồ tài chính thế giới năm 2010 và chưa có dấu hiệu được loại trừ hoàn toàn trong năm 2011 (năm 2010 chứng kiến giá vàng lập kỷ lục đỉnh cao của mọi thời đại là 1.427 USD mỗi ounce trong ngày 6/12/2010, so với mức 1.096 USD ngày đầu năm 2010 và mức 270 USD cách đây 10 năm, Goldman Sachs dự đoán năm 2013 kỷ lục mới có thể đạt đỉnh ở 1.750USD).
Ngoài ra, thế giới vẫn còn có lý do để lo ngại những rủi ro và khó dự đoán đến từ phía các quyết sách kinh tế của chính phủ nhiều nước, nhất là từ những nước con nợ lớn nhằm giải tỏa các khó khăn tài chính của mình, và cả từ một số nền kinh tế lớn, đang chiếm thế thượng phong trên thị trường quốc tế, vốn ấp ủ nhiều toan tính mới, tầm vóc toàn cầu, như Trung Quốc. Nhiều chuyên gia kinh tế và chính trị gia của Mỹ cho là Trung Quốc cố tình định giá đồng Nhân dân tệ thấp hơn giá trị thực so với đồng USD từ 25 - 40% để giành ưu thế bất bình đẳng trong thương mại. Đây cũng là nguyên nhân gây căng thẳng thương mại và tiền tệ giữa Bắc Kinh và Washington, khiến dẫn tới những mối lo về một “cuộc chiến tranh tiền tệ toàn cầu”.
Chính sách thắt chặt chi tiêu công của châu Âu diễn ra như một hiện tượng khu vực năm 2010, đang và sẽ có tác động 2 mặt của đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội khu vực và quôc tế.
Một mặt, chính sách thắt chặt chi tiêu công, thể hiện ở các nội dung như giảm hoặc trì hoãn trả lương và tiền thưởng, trợ cấp hưu trí và các chế độ phúc lợi xã hội khác; bãi bỏ các khoản miễn, giảm thuế và tăng mức thu thuế đối với một số loại thuế và lĩnh vực, sản phẩm; trì hoãn hay cắt giảm các khoản đầu tư công và chi phí mua sắm công, kể cả chi phí quốc phòng; thậm chí nới lỏng các điều kiện tuyển dụng và sa thải lao động…sẽ trực tiếp và gián tiếp giúp cải thiện thâm hụt ngân sách Nhà nước, cũng như tình trạng nợ công khác, tăng niềm tin và khích lệ đầu tư xã hội, từ đó giúp khôi phục và ổn định kinh tế vĩ mô. Về triển vọng, một đồng euro đang sụt giá, dao động ở khoảng 1,24 USD đổi lấy 1 euro, cũng có thể là một “đòn bẩy” giúp xuất khẩu của khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu tăng lên, tức cho phép eurozone phần nào lấy lại cân bằng trước những thiệt thòi do chính sách cắt giảm chi tiêu gây nên.
Mặt khác, làn sóng cắt giảm chi tiêu công có thể làm gia tăng tình trạng thất nghiệp và mất ổn định xã hội; làm tiêu giảm động lực tăng trưởng kinh tế từ khu vực công, khi mà sự hồi phục kinh tế vĩ mô trên phạm vi quốc gia hay toàn cầu, cũng như năng lực tài chính vi mô của nhiều doanh nghiệp, và cả sự hồi phục sức mua thị trường xã hội là chưa thực chắc chắn, tức sẽ đẩy các nền kinh tế rơi trở lại vùng suy thoái.
Ngược lại với chinh sách thắt chặt chi tiêu công của châu Âu, Mỹ đang bị mất động lực tăng trưởng từ khu vực tư nhân, nên cần tìm động lực tăng trưởng từ chi tiêu công, bất chấp đang là con nợ lớn nhất trên thế giới. Về triển vọng, giới quan sát thị trường tin rằng, đồng USD sẽ giảm thêm với triển vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ đưa thêm các biện pháp nới lỏng tiền tệ trong thời gian tới. Tình hình còn trở nên phức tạp thêm khi giới chức trách Nhật Bản cho biết sẽ dùng mọi nỗ lực để làm đồng Yên Nhật giảm giá.
Xu hướng điều chỉnh mô hình quản lý kinh tế “hậu suy giảm"
Tại diễn đàn Davos 2010, Tổng thống Pháp N.Sarkozy kêu gọi tiến hành một "Hội nghị Bretton Woods mới", thống nhất mức tỷ giá cố định cho các đồng tiền chủ chốt của thế giới. Thủ tướng Luxembourg đề nghị tăng cường giám sát các nền kinh tế thành viên, thành lập khuôn khổ hành động chung nhằm củng cố kinh tế toàn bộ khu vực đồng euro...
Ngày 21/7/2010, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ký thông qua chính thức Đạo luật Cải cách Tài Chính Phố Wall và Bảo vệ người tiêu dùng (Dodd-Frank Wall Street and Consumer Protection Act), gọi tắt là Luật Dodd - Frank. Lý do ra đời Đạo luật Dodd-Frank bắt nguồn từ nhận thức lại của chính giới Mỹ về sự cần thiết phải đưa ra giải pháp dài hạn, mang tính tái cấu trúc và thay đổi tổng thể hệ thống tài chính Mỹ, nhằm ngăn chặn hữu hiệu và vững chắc các nguy cơ khủng hoảng tương tự trong tương lai. Theo Tổng thống Obama, Đạo luật sẽ gia tăng trách nhiệm của các định chế tài chính, nhưng không làm tê liệt thị trường tự do, thậm chí không chỉ có lợi cho người tiêu dùng, mà còn có tác động tích cực đối với nền kinh tế và giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định khôn ngoan hơn, chấm dứt việc dùng tiền nộp thuế của người dân để tung ra các gói cứu trợ. Đạo luật truyền đi các thông điệp cần thiết từ đó làm thay đổi nhận thức và tạo ra làn sóng mới việc hoàn thiện cơ sở luật pháp trong mỗi nước và quốc tế, cũng như thành lập thêm các định chế cần thiết, tăng cường các hoạt động và công cụ hữu hiệu nhằm hỗ trợ giám sát tài chính Nhà nước và bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động của các thị trường tài chính quốc gia và quốc tế; từ đó góp phần giữ gìn sự ổn định chung các hoạt động tài chính quốc gia và quốc tế trong tương lai.
Tỷ phú đầu cơ George Soros tại một diễn đàn ở Hong Kong đầu năm 2010 cũng cho rằng thế giới cần sớm có những tiêu chuẩn chung để tạo ra hệ thống giám sát và điều tiết nền tài chính cần sớm có những tiêu chuẩn chung để tạo ra hệ thống giám sát toàn cầu sao cho có thể tránh cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai: "Trong xu thế toàn cầu hóa, sẽ là ý tưởng sai lầm khi giả thuyết rằng thị trường không cần điều tiết bởi bất cứ ai, bản thân các tổ chức tài chính có thể tự kiểm soát rủi ro và không phải nhờ cậy tới sự giám sát bên ngoài ".
Có thể nói, trên phạm vi toàn cầu, cơ chế quản lý kinh tế “hậu suy giảm” và ngăn chặn tái khủng hoảng kinh tế - tài chính đang từng bước định hình theo hướng vừa tôn trọng tính đặc thù và đa dạng hóa, đa cực hóa, vừa đòi hỏi sự kết hợp hài hòa bàn tay thị trường và bàn tay nhà nước, các nguồn lực nhà nước và tư nhân, bảo đảm lòng tin và sự ổn định trong khu vực tài chính - ngân hàng; coi trọng chất lượng dự báo và hiệu lực giám sát, công tác thông tin, sự đồng bộ và phản ứng chinh sách linh hoạt, cũng như chú ý tính 2 mặt của các chính sách, cơ chế điều tiết quốc gia và quốc tế; đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tập trung nguồn lực và phối hợp hành động chung trên phạm vi khu vực và toàn cầu, thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế. Đặc biệt, cần cải cách cả IMF và các định chế khu vực, quốc tế khác trong việc điều phối và hỗ trợ các quốc gia thành viên thiết kế các biện pháp chính sách ứng phó với tác động của khủng hoảng và suy giảm kinh tế của các quốc gia, cũng như những nỗ lực trong việc giảm nhẹ tác động tiêu cực với người dân nghèo trên toàn thế giới. Hình thành một thế giới toàn cầu hóa và có tổ chức chặt chẽ hơn, hoạt động hiệu quả và nhân văn hơn…
Bản thân việc chuyển bớt 6% quyền bỏ phiếu của IMF từ các nước phát triển vào tay các nền kinh tế mới nổi theo thỏa thuận của Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Xơ Un –Hàn Quốc cuối tháng 11/2010 là tín hiệu mở đầu cho những chuyển dịch cán cân quyền lực mới chưa từng có suốt hơn 50 năm qua trong IMF, và cũng là dấu hiệu của những chuyển dịch mới quan trong cho cơ chế quản lý thế giới mới, thời kỳ hậu khủng hoảng…
Cơ bản hồi phục với triển vọng sáng dần Theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới (WEO) mới nhất của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), mức tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2010 là khoảng 4.8% và năm 2011 sẽ hạ xuống 4.2%. Các nền kinh tế mới nổi có thể tăng trưởng 2.7% trong năm 2010, và 2.2% trong năm 2011 sau khi sụt giảm 3.2% vào năm 2009. Các nền kinh tế đang phát triển tiếp tục chứng kiến đà tăng trưởng mạnh mẽ, có thể vượt mức 7,1% trong năm 2010 và đạt 6,4% trong năm tới, ghi nhận bước tiến đáng kể so với mức mở rộng khiêm tốn 2.5% trong năm 2009. Kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2.6% trong năm 2010 và 2,3% trong năm 2011 sau khi sụt giảm -2.6% vào năm 2009. Tỷ lệ tăng GDP năm 2010 và 2011 của Eurozone lần lượt là 1,7% và 1,5%. Về phần Nhật Bản, IMF nhận định GDP nước này tăng 2,8% trong năm 2010 và 1,5% trong năm 2011, sau khi sụt giảm tới -5.2% vào năm ngoái. GDP năm 2010 và 2011 của Trung Quốc được dự báo tăng lần lượt 10,5% và 9,6%. Thúc đẩy tiêu dùng, đề phòng lạm phát cùng thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục là những “thử thách trí tuệ” giới hoạch định chính sách Bắc Kinh. Tốc độ tăng GDP của Trung Đông và Bắc Phi sẽ là 4,1% năm 2010 và 5,1% năm 2011, so với mức 2% năm 2009. IMF cũng dự báo năm 2011, Ấn Độ sẽ tăng trưởng 8,4%; Nga sẽ tăng trưởng 4,3%; và Braxin sẽ tăng trưởng 4,1%. Trong khi đó, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) dự đoán kinh tế Mỹ sẽ chỉ tăng trưởng 2,4 - 2,5% trong năm 2010 và sang năm 2011 sẽ tăng trưởng 3 - 3,6%. Lạm phát được cho là sẽ tăng 1,1% năm 2010 lên 1,7% năm 2011. Tỷ lệ thất nghiệp dự kiến vẫn là gần 10% cho đến đầu năm 2011, sau đó giảm nhẹ xuống còn 9,2% vào cuối năm 2011. Một số dự báo cho thấy năm 2011, trên phạm vi thế giới, chính sách của các quốc gia về cơ bản vẫn tích cực. Các chương trình cứu trợ tài chính đang được rút dần tuỳ theo tín hiệu của thị trường. Giá nguyên liệu có thể giảm mạnh, làm tăng lợi nhuận ở các nền kinh tế phát triển. Lạm phát và bong bóng tài sản thương mại đang tăng lên, nhưng chỉ xuất hiện ở một số nước, chứ không lan rộng ra quy mô toàn cầu. |
Nguồn: eFinance Online