Gía dầu và khí đốt rẻ đã đem lại những mảng tối không chỉ ở việc sa thải nhân viên mà là nỗi sợ. Điều này không tốt cho các mối quan hệ kinh doanh và quốc tế.
Trong năm 2013, một trong những nhà sản xuất thép lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ đã đầu tư 150 triệu USD để xây dựng nhà máy thép tại Baytown, bên ngoài Houston. Nó mở cửa hồi tháng 4 năm ngoái và tạo được 250 việc làm cho người dân Texas.
Nhà máy này sản xuất 300.000 tấn thép ống vận tải dầu. Thép ống OCTG nhìn chung dài 30 foot, đã được gia nhiệt và vận tải dầu bên trong. Số lượng sản xuất được cho là để bù lại 85% lượng thép OCTG mà Thổ Nhĩ Kỳ đã xuất khẩu tới Mỹ. Nhưng trong nội dung thông báo năm 2014, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ chiếm 5% thị phần về số lượng và chỉ 3.8% thị phần giá trị trong thị trường thép nhập khẩu vào Mỹ.
Tuy nhiên, các nhà máy thép Mỹ đã dùng các biện pháp bảo hộ như chống bán phá giá, thuế đối kháng để ngăn cản hàng nhập khẩu, chẳng hạn như Thổ Nhĩ Kỳ. Đại diện phát biểu cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các biện pháp trên chưa chắc đã mang lại hiệu quả cho nền sản xuất nội địa, nếu có cũng chỉ là tạm thời. Vấn đề cần xem xét là cái bên trong, cái nội tại của ngành thép quốc gia. Nếu các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có thể giảm chi phí sản xuất dựa vào các công nghệ tiên tiến và bán thép với giá cạnh tranh thì phải chăng ngành thép Mỹ đã lạc hậu.
Hơn thế nữa, vấn đề là do ngành thép Mỹ thiếu hiệu quả nên không thể chỉ dựa vào cách áp dụng thuế cho hàng nhập khẩu. Nếu họ tiếp tục làm vậy thì còn đâu là thương mại tự do và công bằng.
Việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá và đối kháng cho hàng nhập khẩu như Thổ Nhĩ kỳ sẽ không thể giải quyết được các vấn đề kinh tế vĩ mô và cấu trúc hiện tại mà Mỹ đang đối mặt. Do đó, họ cần tìm giải pháp mới.
Nguồn tin: Satthep.net