Tin tức ngành thép
Tin tức ngành
Nhập khẩu than cốc của Trung Quốc giảm trong tháng 3
Số lượng than cốc nhập khẩu vào Trung Quốc đã giảm 5% so với cùng kỳ năm trước xuống 8,59 triệu tấn trong tháng 3, chịu áp lực bởi sự sụt giảm khối lượng từ Mông Cổ và Mỹ, dữ liệu hải quan Trung Quốc cho thấy.
Số lượng than cốc nhập khẩu từ nhà cung cấp hàng đầu là Mông Cổ đã giảm 13% so với cùng kỳ năm trước xuống 4,42 triệu tấn trong tháng 3. Các lô hàng từ Mông Cổ chiếm 51% tổng lượng nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng, giảm so với 56% một năm trước đó.
Số lượng nhập khẩu từ Mỹ đã giảm hơn một nửa so với cùng kỳ năm trước xuống 207.703 tấn trong tháng 3 do thuế trả đũa của Trung Quốc đối với Mỹ đã làm suy yếu tính khả thi kinh tế của nhập khẩu than cốc từ nước này.
Các lô hàng từ Úc đã tăng 40% so với cùng kỳ năm trước lên 163.263 tấn trong tháng 3, và khối lượng từ Canada đã tăng 90% so với cùng kỳ năm trước lên 828.065 tấn.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc đã tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước lên 92,8 triệu tấn trong tháng 3.
Chỉ số than cốc cứng cao cấp, hàm lượng chất bốc thấp cfr Trung Quốc đạt trung bình 170,44 USD/tấn trong tháng 3, giảm 3% so với tháng trước và giảm 40% so với cùng kỳ năm trước. Giá than cốc cứng cao cấp, hàm lượng chất bốc thấp fob Úc đạt trung bình 174,84 USD/tấn trong tháng 3, giảm 7% so với tháng 2.
Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc từ Úc giảm trong tháng 3
Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc đã giảm trong tháng 3 do lượng hàng từ các nhà cung cấp hàng đầu là Úc và Brazil giảm.
Theo dữ liệu hải quan Trung Quốc do GTT thu thập, nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 3 đã giảm 6,7% so với cùng kỳ năm trước xuống 93,97 triệu tấn, và nhập khẩu trong tháng 1-3 đã giảm 8% xuống 285,34 triệu tấn.
Nhập khẩu từ Úc, nhà cung cấp lớn nhất của Trung Quốc, đã giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước xuống 55,14 triệu tấn trong tháng 3, và nhập khẩu trong tháng 1-3 đã thấp hơn 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu quặng sắt của Úc đã bị gián đoạn vào tháng 2 do thời tiết khắc nghiệt ở Tây Úc, dẫn đến lượng hàng đến Trung Quốc thấp hơn trong tháng 3.
Nhập khẩu từ Brazil, nhà cung cấp quặng sắt lớn thứ hai của Trung Quốc, đã giảm 8,2% xuống 18,26 triệu tấn trong tháng 3, do thị trường thép Trung Quốc yếu. Tổng nhập khẩu từ Brazil trong tháng 1-3 đạt 59,34 triệu tấn, giảm 15% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhập khẩu từ Ấn Độ đã giảm 40% so với cùng kỳ năm trước xuống 3,21 triệu tấn trong tháng 3, do nhu cầu mua quặng viên Ấn Độ để tiết kiệm chi phí trong lò cao của các nhà máy thép Trung Quốc yếu hơn.
Sản lượng thép thô của các nhà máy thành viên Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (Cisa) đã giảm 5,6% so với cuối tháng 2 vào đầu tháng 3, nhưng đã phục hồi 1,6% vào giữa tháng 3 trước khi lại giảm 1,9% vào cuối tháng 3.
Tổng sản lượng thép của Trung Quốc trong tháng 3 đã tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu xuất khẩu cao hơn và lợi nhuận tăng.
Đánh giá quặng sắt mịn 62% Fe cfr Thanh Đảo ở mức 104 USD/tấn khô (dmt) vào ngày 28 tháng 3, tăng 0,6% so với cuối tháng 2 do nhu cầu thép cao hơn ở Trung Quốc.
Phân tích thị trường
Cán nóng
Giá thép cuộn cán nóng tại các thành phố lớn trên toàn quốc giảm nhẹ. Tính đến thời điểm phát hành bản tin, giá trung bình toàn quốc của thép cuộn cán nóng 3.0mm là 3375 NDT/tấn, giảm 11 NDT/tấn so với ngày giao dịch trước đó; giá trung bình toàn quốc của thép cuộn cán nóng 4.75mm là 3320 NDT/tấn, giảm 10 NDT/tấn so với ngày giao dịch trước đó.
Theo khu vực, giá giảm 10-40 NDT/tấn trên toàn quốc, với khu vực Hoa Đông giảm mạnh nhất.
Hôm nay, hợp đồng kỳ hạn kim loại đen dao động yếu, hợp đồng HRC tháng 10 giảm 0,81%. Buổi sáng, giá giao ngay ổn định nhờ hợp đồng kỳ hạn tăng nhẹ, nhưng buổi chiều, hợp đồng kỳ hạn tiếp tục yếu, dẫn đến một số thị trường giảm giá thêm. Giao dịch toàn ngày yếu, với các thương nhân trên khắp khu vực giảm giá chào để kích cầu.
Giá thép cuộn cán nóng dự kiến tiếp tục yếu, tại Thượng Hải dao động quanh 3.210-3.220 NDT/tấn (giảm 0-10 NDT/tấn).
Cán nguội
Cụ thể, hôm nay thị trường kỳ hạn thép cuộn cán nóng dao động và đi xuống, niềm tin thị trường rõ ràng không đủ, mức độ giao dịch giảm, giá giao ngay nhìn chung có xu hướng giảm nhẹ. Theo phản hồi từ các nhà kinh doanh ở khu vực Hoa Đông, các nhà sản xuất cuối kỳ chủ yếu mua hàng theo nhu cầu thực tế, giao dịch thị trường khó tăng về khối lượng, khó giảm tồn kho và chủ yếu là bán hàng giá thấp. Về tâm lý, hiện tại các nhà sản xuất cuối kỳ trên thị trường gặp áp lực nhất định trong việc nhận đơn hàng, nhu cầu mua hàng không như kỳ vọng, cộng với việc mùa cao điểm sắp qua, giá thép cuộn cán nguội có thể sẽ tiếp tục chịu áp lực.
Giá thép cuộn cán nguội giao ngay trên toàn quốc yếu, với giá trung bình đạt 3.973 NDT/tấn, giảm 14 NDT/tấn so với ngày trước. Trong đó, giá thị trường Thượng Hải là 3760 NDT/tấn, giá thị trường Thiên Tân là 3820 NDT/tấn và giá thị trường Quảng Châu là 3850 NDT/tấn.
Xét theo khu vực, giá ở Thượng Hải, Hàng Châu, Nam Kinh, Tế Nam và các thị trường khác giảm 10-40 NDT/tấn, giá các thị trường còn lại chủ yếu ổn định.
Khu vực: Giá tại Thượng Hải, Hàng Châu, Nam Kinh, Tế Nam giảm 10-40 nhân dân tệ/tấn, các thị trường khác giữ ổn định.
Hôm nay, hợp đồng kỳ hạn thép cuộn cán nóng dao động giảm, làm suy yếu niềm tin thị trường, giao dịch kém sôi động, giá giao ngay giảm nhẹ. Theo phản hồi từ thương nhân Hoa Đông, nhu cầu đầu cuối chủ yếu là mua theo nhu cầu, giao dịch khó tăng, tồn kho giảm chậm, thương nhân tập trung xuất hàng giá thấp.
Thị trường chịu áp lực từ đơn hàng đầu cuối yếu, nhu cầu mua sắm thấp hơn kỳ vọng, cộng thêm mùa cao điểm sắp kết thúc, giá CRC có thể tiếp tục chịu áp lực giảm.
Giá thép cuộn cán nguội dự kiến tiếp tục yếu, tại Thượng Hải dao động quanh 3.750-3.760 NDT/tấn (giảm 0-10 NDT/tấn).
Tấm
Giá thép tấm trung bình trên thị trường nội địa nhìn chung ổn định, giá trung bình toàn quốc của thép tấm thông thường dày 20mm là 3547 NDT/tấn, không đổi so với ngày giao dịch trước đó, giá trung bình của thép hợp kim thấp là 3726 NDT/tấn, không đổi so với ngày giao dịch trước đó.
Trong đó, giá chào tại các thành phố lớn như Thượng Hải là 3460 NDT/tấn, Quảng Châu là 3730 NDT/tấn, Vũ An là 3440 NDT/tấn, Vũ Hán là 3520 NDT/tấn và Trùng Khánh là 3540 NDT/tấn.
Nhìn chung, nguồn cung yếu, nhu cầu hạ nguồn yếu nhưng ổn định, thương nhân giữ tâm lý thận trọng lạc quan về triển vọng.Giá thép tấm trung bình dự kiến ổn định, tại Thượng Hải: thép hợp kim thấp quanh 3.800-3.820 NDT/tấn, thép tấm phổ thông quanh 3.600-3.620 NDT/tấn.
Cuộn mạ kẽm
Hôm nay, hợp đồng kỳ hạn thép cuộn cán nóng dao động giảm, thị trường giao ngay có giao dịch ảm đạm, nhiều thương nhân tăng ưu đãi vào buổi chiều nhưng giao dịch vẫn không khả quan.
Chênh lệch giá khu vực: thị trường Hoa Bắc ghi nhận giá thép mạ kẽm ở mức cao trong khi Hoa Đông và Hoa Nam vẫn là "vùng trũng" về giá. Điều này chủ yếu là do nguồn cung lưu thông ở thị trường Hoa Đông và Hoa Nam khá nhiều, các nhà kinh doanh buộc phải hạ giá để giảm áp lực tồn kho. May mắn là lượng hàng đến sau đó không nhiều, nên vẫn có dư địa nhất định để phục hồi chênh lệch giá khu vực.
Giá thép mạ kẽm dự kiến ổn định nhưng nghiêng về yếu, tại Thượng Hải dao động quanh 4.100-4.110 NDT/tấn (1.0mm, giảm 0-10 NDT/tấn), tại Bác Hưng quanh 3.540-3.550 NDT/tấn (0.41000C, ổn định).
Ống đúc
Giá ống đúc tại các thành phố lớn trên toàn quốc tạm ổn định, với giá trung bình loại 108*4.5mm đạt 4.339 NDT/tấn.
Giá phôi ống tại Sơn Đông giảm 10 NDTtấn, tại Giang Tô tăng 10 NDT/tấn.
Một số nhà máy giảm giá ống đúc xuất xưởng 30 NDT/tấn, trong khi các nhà máy chủ đạo khác giữ giá xuất xưởng ổn định.
Hợp đồng kỳ hạn kim loại đen giảm, nếu phiên đêm tiếp tục yếu, sẽ càng đè nén tâm lý thị trường giao ngay. Các thương nhân có thể giảm giá nhẹ để thúc đẩy giao dịch, với tâm lý quan sát chiếm ưu thế. Nếu giao dịch ngày mai vẫn ảm đạm, nhiều nhà máy có thể giảm giá để giảm áp lực tồn kho.
Tính tích cực mua sắm của các dự án hạ nguồn thấp, giao dịch chủ yếu là các đơn hàng nhỏ theo nhu cầu thiết yếu, thiếu sự hỗ trợ từ khối lượng lớn, hạn chế không gian tăng giá.
Giá ống đúc dự kiến ổn định nhưng nghiêng về yếu, dao động quanh 4.320-4.330 NDT/tấn (loại 108*4.5mm, giảm 0-10 NDT/tấn). Cần cảnh giác với khả năng tâm lý cải thiện nếu hợp đồng kỳ hạn phục hồi.
Ống hàn
Các nhà kinh doanh ở các thị trường tiếp tục duy trì mô hình mua vào theo lượng bán ra, giá nhập hàng của nguồn tài nguyên trong kho nhìn chung vẫn ở mức cao, thị trường người mua vẫn thể hiện khá rõ rệt. Theo phản hồi từ các nhà kinh doanh ở các thị trường, lượng nhu cầu từ phía người tiêu dùng cuối cùng không tăng đáng kể, giao dịch tổng thể kém, cung và cầu thị trường duy trì trạng thái cân bằng yếu. thị trường quốc tế vẫn bất ổn, cần tiếp tục theo dõi các chính sách điều chỉnh trong nước sau này. Tóm lại, trong bối cảnh hiện tại chưa có thông tin tích cực từ chính sách, dự kiến giá thị trường ống thép hàn trên toàn quốc hôm nay có thể sẽ vận hành yếu và ổn định, nhưng mức giảm sẽ hạn chế.
Các thương nhân tại nhiều khu vực tiếp tục duy trì mô hình mua vào theo lượng bán ra, với giá nhập hàng tồn kho tổng thể vẫn ở mức cao, và thị trường thiên về phía người mua vẫn khá rõ rệt.
Theo các thương nhân, nhu cầu đầu cuối không tăng đáng kể, giao dịch tổng thể kém sôi động, thị trường duy trì trạng thái cung cầu cân bằng yếu.
Xét về các thông tin vĩ mô hiện tại,thị trường quốc tế vẫn chưa ổn định, cần chú ý đến các chính sách điều chỉnh trong nước sắp tới.
Trong bối cảnh chưa có chính sách tích cực, giá ống hàn dự kiến yếu nhưng ổn định, dao động quanh 4.200-4.250 NDT/tấn (giảm 0-10 NDT/tấn), với mức giảm hạn chế.
Phôi thép
Giá phôi thép toàn quốc có nơi giảm 10-30 NDT/tấn, với các nguồn cung giá thấp giao dịch sôi nổi, chủ yếu là giao dịch giữa các thương nhân, trong khi các nhà máy cán thép mua phôi theo nhu cầu.
Tại Đường Sơn, giao dịch phôi trực tiếp ở mức trung bình, phôi thép tồn kho giao ngay giảm 30 NDT/tấn so với ngày hôm qua, một số nguồn giao ngay giảm xuống 3.010-3.020 NDT/tấn.
Giá thành phẩm từ phôi thép ổn định hoặc giảm nhẹ, với giao dịch tổng thể của thành phẩm từ phôi thép không tốt.