Ngày 13/10, thị trường thép nội địa tiếp tục đi ngang. Trong khi đó, sàn giao dịch Thượng Hải giảm 8 Nhân dân tệ/tấn với thép cây kỳ hạn tháng 5/2024.
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.740 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.690 đồng/kg.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn giao dịch có phiên giảm nhẹ. Ảnh: CGTN
Thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 giữ ở mức 13.430 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.890 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 không biến động ở mức 13.190 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.500 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 dừng ở mức 13.190 đồng/kg; trong khi đó thép thanh vằn D10 CB300 tiếp tục giữ ở mức giá 13.400 đồng/kg.
Thép VJS, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.740 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.140 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.550 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.400 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.480 đồng/kg - giảm 110 đồng; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.380 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.790 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 có giá 13.190 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.
Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 có giá 14.280 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.380 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 8 Nhân dân tệ, xuống mức 3.593 Nhân dân tệ/tấn.
Hợp đồng quặng sắt tháng 11 tại Singapore - được giao dịch nhiều nhất, kết thúc ở mức 112,50 USD/tấn, tăng 1,6% so với mức đóng cửa trước đó là 110,78 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 30/8.
Giá tăng xảy ra khi nhà phát triển bất động sản lớn của Trung Quốc Country Garden 2007.HK trở thành công ty bất động sản mới nhất cảnh báo rằng họ không thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ nước ngoài.
Country Garden tham gia cùng một số công ty bất động sản khác trong việc tìm cách cơ cấu lại nợ, trong đó JPMorgan cho biết các nhà phát triển chiếm 40% doanh số bán nhà ở Trung Quốc đã vỡ nợ kể từ năm 2021.
Những công ty vỡ nợ, chủ yếu là tư nhân, đã phát hành trái phiếu nước ngoài có lãi suất cao trị giá khoảng 110 tỷ USD.
Với những gì dường như là một cuộc khủng hoảng thanh khoản nghiêm trọng và lan rộng trong lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc, việc tăng giá quặng sắt có vẻ phản trực giác.
Điều này đặc biệt đúng khi các nỗ lực kích thích của Bắc Kinh cho đến nay vẫn chưa giúp lĩnh vực này phục hồi và hơn nữa được coi là không thúc đẩy các bộ phận quan trọng khác của nền kinh tế nhiều như mong đợi.
Cũng có những dấu hiệu cho thấy nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc có thể giảm trong tháng 10, mặc dù điều đó rất có thể liên quan đến kỳ nghỉ lễ kéo dài một tuần vào đầu tháng.
Số liệu chính thức cuối cùng về nhập khẩu quặng sắt là số liệu hải quan trong tháng 8 là 106,42 triệu tấn, đây là tổng số hàng tháng cao nhất kể từ tháng 10/2020.
Tuy nhiên, kể từ đó, nhập khẩu đã giảm bớt, với các nhà phân tích hàng hóa Kpler ước tính lượng hàng nhập khẩu trong tháng 9 là 103,42 triệu tấn và tháng 10 đang trên đà đạt 96,13 triệu tấn.
Dữ liệu LSEG ước tính lượng nhập khẩu trong tháng 9 của Trung Quốc là 95,46 triệu tấn và lượng nhập khẩu vào tháng 10 là 88,48 triệu tấn.
Mặc dù dữ liệu theo dõi tàu và cảng của các nhà phân tích không phải lúc nào cũng khớp chính xác với dữ liệu hải quan do có sự khác biệt về thời điểm hàng hóa được đánh giá là đã thông quan, nhưng nó có mối tương quan cao trong việc xác định xu hướng.
Một mối lo ngại nữa có thể xảy ra đối với nhập khẩu quặng sắt là chính sách Trung Quốc sẽ áp dụng liên quan đến sản xuất thép trong giai đoạn mùa đông sắp tới.
Nếu chính quyền Bắc Kinh đặt mục tiêu đảm bảo sản lượng thép năm 2023 không cao hơn năm 2022, điều đó có nghĩa là sản lượng trong 4 tháng cuối năm sẽ phải thấp hơn so với 8 tháng đầu năm.
Theo dữ liệu chính thức, sản lượng thép thô là 712,9 triệu tấn trong 8 tháng đầu năm, đưa ra mức trung bình hàng tháng là 89,1 triệu tấn.
Tổng sản lượng vào năm 2022 là 1,01 tỷ tấn, nghĩa là để giữ sản lượng của năm nay ở mức tương tự, tổng cộng 297,1 triệu tấn có thể được sản xuất trong 4 tháng qua.
Điều này tương đương với 74,3 triệu tấn mỗi tháng trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12, giảm mạnh sản lượng trung bình hàng tháng từ đầu năm đến nay.
Một yếu tố tăng giá có thể xảy ra đối với quặng sắt là lượng tồn kho tại cảng Trung Quốc tiếp tục giảm, điều này cho thấy cơ hội nhập khẩu nhiều hơn để tăng lượng tồn kho.
Tồn kho tại cảng được chuyên gia tư vấn SteelHome đánh giá đã giảm xuống 110,65 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 22/9, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2020 và dưới mức 137,8 triệu tấn so với cùng tuần năm 2022.
Không có dữ liệu nào được công bố trong tuần tính đến ngày 6/10 do kỳ nghỉ Tuần lễ Vàng, vì vậy số liệu công bố trong tuần này sẽ là chìa khóa để đánh giá liệu hàng tồn kho có còn giảm hay không và liệu có nhu cầu bổ sung hàng dự trữ hay không.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị