Ngày 14/7, thị trường thép trong nước giữ nguyên giá bán. Còn trên sàn giao dịch Thượng Hải, với thép kỳ hạn giao tháng 5/2024 tăng nhẹ lên mức 3.609 Nhân dân tệ/tấn.
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.040 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.380 đồng/kg.
Tương tự, thương hiệu thép Việt Ý, với thép cuộn CB240 có giá 13.740 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.140 đồng/kg.
Quặng sắt, giá thép kỳ hạn tăng ngày thứ ba nhờ dữ liệu thương mại mạnh mẽ của Trung Quốc, tăng trưởng tín dụng. Ảnh minh họa
Thép Việt Đức tiếp đà đi ngang, với thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.240 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 ở mức 14.010 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.060 đồng/kg.
Thép VAS, thép cuộn CB240 giữ ở mức 13.850 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.960 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.060 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.910 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát không thay đổi, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.240 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.770 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.010 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.060 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.100 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.340 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.850 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.960 đồng/kg.
Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 dừng ở mức 15.100 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) tăng 24 Nhân dân tệ, lên mức 3.609 Nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tăng phiên thứ ba liên tiếp vào ngày 13/7, nhờ dữ liệu nhập khẩu quặng sắt mạnh trong tháng 6 của Trung Quốc và tăng trưởng tín dụng, mặc dù triển vọng kinh tế ảm đạm và căng thẳng địa chính trị đã hạn chế đà tăng.
Quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc DCIOcv1 đã kết thúc giao dịch trong ngày tăng 1,6% ở mức 829,0 Nhân dân tệ (115,68 USD)/tấn, mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 30/6.
Trên sàn giao dịch Singapore, quặng sắt chuẩn tháng 8 SZZFG3 tăng 0,8% lên 109,8 USD/tấn.
Dữ liệu hải quan cho thấy nhập khẩu quặng sắt trong tháng 6 của Trung Quốc tăng 7,4% nhờ nhu cầu vững chắc từ các nhà sản xuất thép trong nước, mặc dù khối lượng tháng 6 thấp hơn một chút so với 96,18 triệu tấn nhập khẩu trong tháng 5.
Ngân hàng Quốc gia Australia cho biết trong một báo cáo rằng giá quặng sắt cũng được nâng lên chỉ sau một đêm nhờ dữ liệu tín dụng khả quan từ Trung Quốc khi tổng tài chính cho tháng 6 tăng, vượt qua kỳ vọng và là một dấu hiệu tích cực cho thị trường bất động sản.
Tuy nhiên, xuất khẩu tổng thể của Trung Quốc đã ký hợp đồng vào tháng trước với tốc độ nhanh nhất kể từ khi đại dịch Covid-19 bắt đầu cách đây ba năm, do nền kinh tế toàn cầu suy yếu gây áp lực lên các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc về các biện pháp kích thích mới.
Lv Daliang, người phát ngôn của Tổng cục Hải quan cho biết, tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm chạp, thương mại và đầu tư thế giới chậm lại cũng như rủi ro địa chính trị tiếp tục tác động đến thương mại của Trung Quốc.
Sản lượng thép thô hàng ngày giữa các nhà máy thành viên của Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA) đã giảm xuống thấp hơn trong khoảng thời gian từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 7, giảm 0,3%, tương đương 5.600 tấn, xuống 2,24 triệu tấn so với 10 ngày trước đó.
Hợp đồng thép cây được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải SRBcv1 tăng 0,9%, thép cuộn cán nóng SHHCcv1 tăng 0,8%, thép dây SWRcv1 tăng 0,5% và thép không gỉ SHSScv1 tăng 0,7%.
Nguyên liệu sản xuất thép cũng tăng, với than cốc Đại Liên DJMcv1 và than cốc DCJcv1 lần lượt tăng 1,1% và 0,9%.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị