Ngày 9/10, thị trường thép nội địa giữ bình ổn. Trong khi đó, nhiều chuyên gia dự báo các nhà sản xuất thép toàn cầu chuyển sang sử dụng nguyên liệu xanh hơn.
Các chuyên gia dự báo, nhà sản xuất thép sẽ ưu tiên vào thúc đẩy thép xanh hơn là các mỏ quặng sắt. Ảnh: Danieli
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.740 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.690 đồng/kg.
Thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 giữ ở mức 13.430 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.890 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 không biến động ở mức 13.190 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.500 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 dừng ở mức 13.190 đồng/kg; trong khi đó thép thanh vằn D10 CB300 tiếp tục giữ ở mức giá 13.400 đồng/kg.
Thép VJS, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.740 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.140 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.550 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.400 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.480 đồng/kg - giảm 110 đồng; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.380 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.790 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 có giá 13.190 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.
Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 có giá 14.280 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.380 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép cây giao kỳ hạn trên sàn giao dịch Thượng Hải đóng cửa do kỳ nghỉ lễ.
Các chuyên gia phân tích của Wood Mackenzie cho biết, sự bùng nổ quặng sắt, một trong những đợt bùng nổ hàng hóa lớn của thế kỷ 21 sắp kết thúc. Nhu cầu đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 2000, nhưng ngành này đang chuẩn bị cho sự thay đổi cơ cấu khi nhu cầu của Trung Quốc giảm dần và các nhà sản xuất thép toàn cầu chuyển sang sử dụng nguyên liệu xanh hơn.
Theo David Cachot - Giám đốc nghiên cứu trong nhóm Kim loại & Khai thác Wood Mackenzie, Trung Quốc chuyển đổi nhanh chóng nền kinh tế trong bốn thập kỷ qua được xây dựng bằng thép. Nhưng sự bùng nổ không thể kéo dài mãi mãi. Tăng trưởng kinh tế chậm hơn và sự chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ đã làm giảm nhu cầu thép của Trung Quốc.
Nhu cầu quặng sắt giảm tại các nhà máy thép Trung Quốc là điều không thể tránh khỏi. Sự kết hợp giữa việc giảm sản lượng kim loại nóng từ lò cao và việc tăng cường sử dụng phế liệu sẽ làm giảm khoảng 270 triệu tấn nhu cầu quặng sắt của Trung Quốc trong thập kỷ tới, bằng 20% mức tiêu thụ hiện tại của cả nước.
"Với việc Trung Quốc chiếm hơn 60% thị trường quặng sắt toàn cầu, đây là một vấn đề lớn. Hiện tại, chúng tôi dự kiến tổng nhu cầu quặng sắt sẽ giảm 62 triệu tấn, tương đương 3%, trong 10 năm tới" - ông David Cachot nói.
Chắc chắn đó không phải là tất cả sự diệt vong và u ám, khi Ấn Độ và Đông Nam Á chuẩn bị cho sự tăng trưởng mạnh mẽ về tiêu thụ quặng sắt trong tương lai. Đối với các nhà sản xuất lớn, tin tốt này được bù đắp ở một mức độ nào đó do nhu cầu của Ấn Độ chủ yếu được đáp ứng từ các mỏ trong nước.
Nước này sẽ chỉ trở thành nhà nhập khẩu ròng vào giữa những năm 2030, với lượng nhập khẩu đạt khoảng 35 triệu tấn vào năm 2050, một phần rất nhỏ so với mức hơn một tỷ tấn hiện nay của Trung Quốc.
Đầu tư lớn vào nguồn cung mới từ năm 2011 - 2014 đã đảm bảo sản lượng quặng sắt dồi dào trong nhiều thập kỷ tới. Kết hợp điều này với nhu cầu yếu hơn và đầu tư vào các dự án quặng sắt sẽ giảm đáng kể. Hiện tại, Wood Mackenzie dự kiến đầu tư vào mỏ sẽ giảm 35% cho đến năm 2033 so với 10 năm qua.
Khi nhu cầu của Trung Quốc giảm, sản lượng quặng sắt trong nước dự kiến sẽ giảm một nửa trong 10 năm tới do chi phí tăng và nguồn tài nguyên chất lượng thấp hơn. Và trong khi khả năng cung cấp hiện tại đủ để đáp ứng sự thiếu hụt này, người mua sẽ chuyển từ số lượng sang chất lượng.
Điều làm thay đổi cơ bản việc đầu tư vào các dự án quặng sắt là việc thúc đẩy thép xanh hơn. Quá trình chuyển đổi dài hạn sang thép xanh đặt các nhà cung cấp quặng chất lượng cao, ít tạp chất vào vị trí cực.
Sự thay đổi cơ cấu này đã tác động đến các quyết định đầu tư vốn, trong đó các nhà phát triển thể hiện sự ưu tiên rõ ràng đối với tài nguyên quặng sắt chất lượng cao. Brazil có vẻ có vị thế tốt, trong khi dự án Simandou khổng lồ của Guinea dự kiến sẽ trở thành nguồn cung cấp quặng sắt chất lượng cao đáng kể nhất trong lịch sử gần đây, đáng chú ý cả về công suất sản xuất theo kế hoạch (lên tới 180 tấn mỗi năm) và chất lượng.
Việc chuyển đổi sang thép xanh đặt ra thách thức đối với các nhà sản xuất quặng cấp thấp hơn, đặc biệt là Australia. Dự báo xuất khẩu quặng sắt của Australia, hiện chiếm khoảng 60% tổng sản lượng toàn cầu, sẽ đạt đỉnh trong hai năm tới trước khi bước vào giai đoạn suy giảm dần dần trong dài hạn.
Các công ty khai thác Úc đang ứng phó với thị trường đang thay đổi bằng cách đầu tư vào công nghệ, để làm cho quặng sắt của họ phù hợp với các quy trình khử sắt trực tiếp (DRI) và khử cacbon trong sản xuất hiện có.
Trong bối cảnh thay đổi của quặng sắt, sự khác biệt về chất lượng sẽ là chìa khóa cho việc định giá trong tương lai. Nhu cầu ngày càng tăng đối với sản phẩm dạng cục và viên chất lượng cao cũng như những hạn chế về nguồn cung sẽ thúc đẩy giá cao hơn cho các sản phẩm này trong thời gian dài.
Trong khi đó, giá quặng cấp thấp giao cho Trung Quốc sẽ giảm khoảng 1/3 vào đầu những năm 2030 do nhu cầu của Trung Quốc giảm. Dự báo của về giá viên cao cấp sẽ tăng hơn 20% trong cùng kỳ là một dấu hiệu cho thấy việc thúc đẩy thép xanh đang phá vỡ thị trường như thế nào.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị