Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm do USD mạnh lên.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2017 trên sàn New York giảm 0,04 USD xuống 47,55 USD/thùng sau khi có lúc chạm 47,02 USD, mức thấp nhất kể từ 25/7; dầu Brent giao tháng 10/2017 đóng cửa tăng 0,07 USD lên 50,80 USD/thùng tại London nhưng trong phiên có lúc xuống 50,02 USD.
Đồng USD mạnh lên khiến giá dầu - mặt hàng vốn được giao dịch bằng đồng tiền xanh - trở nên đắt đỏ hơn và kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư đang nắm giữ các đồng tiền khác.
Ngoài ra, giá dầu trong thời gian gần đây đang phải chịu sức ép lớn do các nhà đầu tư quan ngại rằng tình trạng dư cung trên quy mô cung toàn cầu sẽ còn kéo dài, bất chấp nỗ lực cắt giảm sản lượng của các nhà sản xuất chủ chốt.
Bên cạnh vấn đề cung - cầu, các nhà đầu tư cũng đang theo dõi sát sao những diễn biến xoay quanh căng thẳng Mỹ-CHDCND Triều Tiên liên quan tới chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng.
Tại Trung Quốc, các nhà máy lọc dầu đang hoạt động với công suất thấp nhất kể từ tháng 9/2016 nhằm giảm bớt lượng dầu dự trữ quá lớn khi các tập đoàn dầu khí nhà nước đang phải đối đầu với cuộc chiến về giá xăng bán lẻ. Việc giá xăng tại Trung Quốc giảm sâu hơn dự kiến làm dấy lên thêm lo ngại rằng sự dư thừa nguồn cung các sản phẩm dầu tinh chế có thể làm nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc càng suy yếu hơn.
Ngoài ra, việc tập đoàn dầu khí Royal Dutch Shell tại Nigeria dỡ bỏ thông báo ngừng xuất khẩu dầu thô Bonny Light càng gia tăng mối lo về dôi dư nguồn cung đối với thị trường. Dự kiến, báo cáo hàng tuần về dự trữ dầu thô của Mỹ sẽ được Viện dầu mỏ Mỹ (API) công bố cuối ngày 15/8 và sẽ được Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA), thuộc Bộ Năng lượng Mỹ công bố ngày 16/8.
Theo EIA, bất chấp nỗ lực cắt giảm sản lượng của các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), sản lượng dầu đá phiến của Mỹ ước tăng tháng thứ chín liên tiếp trong tháng 9/2017, lên 6,15 triệu thùng/ngày.
Sản lượng dầu đá phiến Mỹ tiếp tục tăng mặc dù các nhà đầu tư quan ngại. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ EIA dự báo sản lượng dầu đá phiến của Mỹ trong tháng 9 tăng 117.000 trường/ngày lên 6,15 triệu thùng/ngày, tăng tháng thứ 9 liên tiếp. Số liệu dự báo gồm khu vực Anadarko, khu vực đá phiến phong phú và đang phát triển có số giàn khoan hoạt động lớn thứ hai với 129 giàn, sau 373 giàn của Permian.
EIA bổ sung rằng khu vực này trở thành mục tiêu của nhiều nhà sản xuất sử dụng công nghệ khoan cải tiến và hoàn thiện cho lưu vực sản xuất dầu mỏ và khí đốt đã được thiết lập.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm phiên thứ 2 liên tiếp cũng do USD mạnh lên trong bối cảnh các số liệu về kinh tế Mỹ tươi sáng hơn dự báo.
Giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.271,58 USD/ounce, vàng giao kỳ hạn tháng 12/2017 cũng để giảm 0,8% xuống 1.279,7 USD/ounce
Đà giảm của giá vàng được nới rộng do những số liệu khả quan về ngành bán lẻ của Mỹ trong tháng Bảy. Bên cạnh đó, chỉ số môi trường kinh doanh của New York mạnh lên cũng là chỉ báo cho thấy kinh tế Mỹ đang tiếp tục đà tăng trưởng.
Một yếu tố cũng ảnh hưởng tới giá vàng là những đồn đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiến hành thêm một đợt nâng lãi suất nữa trong năm nay. Giá vàng khá nhạy cảm với chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, đồng thời làm đồng USD mạnh lên khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua đang nắm giữ các đồng tiền khác.
Các nhà đầu tư cũng đang chờ đợi biên bản cuộc họp tháng 7 của Fed (dự kiến sẽ được công bố vào ngày16/8) để tìm kiếm thêm manh mối về lộ trình nâng lãi suất của ngân hàng này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 2,1% xuống 16,65 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,7% xuống khép phiên ở mức 958,5 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê robusta xuống mức thấp nhất 7 tuần, cacao và đường cũng giảm.
Cà phê robusta giao tháng 11 giảm 47 USD tương đương 2,2% xuống 2.053 USD/tấn, arabica giao tháng 12 giảm 4,95 US cent tương đương 3,5% xuống 1,3555 US cent/lb.
Giá đường thô giao tháng 10 giảm 0,37 US cent tương đương 2,7% xuống 13,13 US cent/lb, đường trắng giao tháng 10 giảm 7,4 USD tương đương 2% xuống 363,10 USD/tấn.
Các yếu tố cơ bản vẫn gây áp lực giảm giá, tromg bối cảnh lo ngại về thời tiết khô hạ ở Brazil đã giảm bớt.
Cơ quan nhập khẩu quốc gia Ai Cập ngày 15/8 đã mở thầu mua 50.000 tấn đường thô kỳ hạn giao tháng 11. Ai Cập đã ký hợp đồng mua 850.000 tấn đường từ đầu năm tới nay
Tại thị trường ngũ cốc châu Á, giá lúa mì vụ Xuân hiện ở mức 6,67 USD/bushel. Hồi tháng 7 giá loại này đã tăng lên mức cao kỷ lục 4 năm là 8,16-1/4 USD/bushel.
Tuần này có 4 nhà máy ở Indonesia đã mua 25.000 tấn lúa mì Xuân Canada, hàng giao vào tháng 11, trong khi các nhà xuất khẩu Australia đang chào bán lúa mì vụ thu hoạch mới.
Một nhà máy Indonesia đã mua lúa mì Canada với giá khoảng 320 – 325 USD/tấn, C&F.
Giá hàng hóa thế giới
| ĐVT | Giá | +/- | +/- (%) |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 47,55 | -0,04 | +0,14% |
Dầu Brent | USD/thùng | 51,802 | +0,07 | +0,23% |
Dầu thô TOCOM | JPY/kl | 34.280,00 | +140,00 | +0,41% |
Khí thiên nhiên | USD/mBtu | 2,91 | -0,02 | -0,78% |
Xăng RBOB FUT | US cent/gallon | 158,56 | +0,61 | +0,39% |
Dầu đốt | US cent/gallon | 160,81 | +0,85 | +0,53% |
Dầu khí | USD/tấn | 474,50 | +3,00 | +0,64% |
Dầu lửa TOCOM | JPY/kl | 48.750,00 | +100,00 | +0,21% |
Vàng New York | USD/ounce | 1.279,10 | -0,60 | -0,05% |
Vàng TOCOM | JPY/g | 4.515,00 | +9,00 | +0,20% |
Bạc New York | USD/ounce | 16,67 | -0,04 | -0,26% |
Bạc TOCOM | JPY/g | 59,10 | -0,70 | -1,17% |
Bạch kim giao ngay | USD/t oz. | 963,54 | +1,57 | +0,16% |
Palladium giao ngay | USD/t oz. | 890,63 | +1,09 | +0,12% |
Đồng New York | US cent/lb | 288,65 | +0,35 | +0,12% |
Đồng LME 3 tháng | USD/tấn | 6.379,00 | -18,00 | -0,28% |
Nhôm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.049,00 | +26,00 | +1,29% |
Kẽm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.959,50 | +42,50 | +1,46% |
Thiếc LME 3 tháng | USD/tấn | 20.100,00 | -200,00 | -0,99% |
Ngô | US cent/bushel | 369,25 | +0,75 | +0,20% |
Lúa mì CBOT | US cent/bushel | 457,50 | +1,50 | +0,33% |
Lúa mạch | US cent/bushel | 255,00 | -1,75 | -0,68% |
Gạo thô | USD/cwt | 12,20 | -0,04 | -0,37% |
Đậu tương | US cent/bushel | 923,50 | -0,75 | -0,08% |
Khô đậu tương | USD/tấn | 298,90 | -0,50 | -0,17% |
Dầu đậu tương | US cent/lb | 33,01 | -0,03 | -0,09% |
Hạt cải WCE | CAD/tấn | 491,30 | -3,00 | -0,61% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 1.865,00 | -55,00 | -2,86% |
Cà phê Mỹ | US cent/lb | 135,55 | -4,95 | -3,52% |
Đường thô | US cent/lb | 13,13 | -0,37 | -2,74% |
Nước cam cô đặc đông lạnh | US cent/lb | 139,30 | +3,25 | +2,39% |
Bông | US cent/lb | 67,16 | 0,00 | 0,00% |
Lông cừu (SFE) | US cent/kg | -- | -- | -- |
Gỗ xẻ | USD/1000 board feet | 373,60 | +3,30 | +0,89% |
Cao su TOCOM | JPY/kg | 215,40 | +2,50 | +1,17% |
Ethanol CME | USD/gallon | 1,55 | -0,03 | -1,84% |
Nguồn tin: Vinanet