Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm mặc dù thông tin mới cho thấy kho dự trữ dầu thô của Mỹ giảm nhiều nhất trong một năm qua.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 10/2017 giảm 53 US cent tương đương 1%, xuống còn 50,27 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2017 giảm 77 US cent tương đương 1,6% xuống 46,78 USD/thùng.
Theo Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA), lượng dầu dự trữ của Mỹ trong tuần trước giảm 8,95 triệu thùng xuống còn 466,5 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 1/2016, đánh dấu tuần sụt giảm thứ bảy liên tiếp.
Tuy nhiên, lượng xăng dự trữ lại không giảm như dự đoán, và số liệu còn cho thấy sản lượng dầu của Mỹ tăng lên 9,5 triệu thùng/ngày, so với mức 9,4 triệu thùng/ngày của tuần trước đó. Sản lượng dầu của Mỹ đã tăng gần 12% kể từ giữa năm 2016.
EIA cho dự báo lượng dầu đá phiến của Mỹ trong tháng 9 tăng 117.000 trường/ngày lên 6,15 triệu thùng/ngày, tăng tháng thứ 9 liên tiếp.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ OPEC đang hạn chế sản lượng khoảng 1,2 triệu thùng/ngày, trong khi Nga và các nhà sản xuất ngoài OPEC đang cắt giảm 600.000 thùng/ngày tới hết tháng 3/2018 để hỗ trợ giá dầu.
Tuy nhiên, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết việc tuân thủ của OPEC với thỏa thuận cắt giảm sản lượng trong tháng 7 đã giảm xuống 75%, mức thấp nhất kể từ khi bắt đầu thỏa thuận này tháng 1/2017. Điều này là do tuân thủ yếu của Algeria, Iraq và UAE.
Ngoài ra, Libya thành viên của OPEC hiện nay được miễn trừ khỏi thỏa thuận cắt giảm có sản lượng tăng cao. Dẫn tới tổng nguồn cung dầu mỏ toàn cầu tăng 520.000 thùng/ngày trong tháng 7, cao hơn 500.000 thùng/ngày so với những mức một năm trước.
Về thông tin liên quan, Tập đoàn dầu mỏ quốc gia Trung Quốc (CNPC) cho biết nhu cầu xăng và dầu của Trung Quốc có thể sẽ đạt “đỉnh” lần lượt vào khoảng năm 2025 và 2030, đồng nghĩa với việc nhu cầu dầu mỏ của cường quốc này sẽ sớm chững lại.
Theo Bộ Đất đai và Tài nguyên Trung Quốc (MLR), đầu tư khai thác dầu khí của nước này trong giai đoạn 2012-2016 đã tăng 12,6% so với giai đoạn 2007-2011.
TTXVN dẫn lời người phát ngôn của MLR Vu Hải Phong nhận định rằng với sự gia tăng đầu tư ổn định trong suốt 5 năm qua, trữ lượng dầu mỏ của Trung Quốc tăng liên tục. Ông Vu Hải Phong cho hay, tính đến thời điểm hiện nay, Trung Quốc đã phát hiện hơn 10 mỏ dầu có trữ lượng 100 triệu tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng đảo chiều tăng sau 2 phiên giảm trước đó, trong bối cảnh đồng USD yếu đi sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố biên bản cuộc họp chính sách tháng 7/2017.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.281,15 USD/ounce, trong phiên có lúc tăng 1% lên 1.283,9 USD/ounce; vàng giao tháng 12/2017 cũng tăng 0,3% lên đóng phiên ở mức 1.282,9 USD/ounce.
Các nhà hoạch định chính sách của Fed dường như thận trọng hơn trước số liệu lạm phát yếu tại Mỹ trong thời gian gần đây. Đồng USD phiên này yếu đi so với rổ các đồng tiền chủ chốt sau khi Fed công bố biên bản cuộc họp chính sách tháng 7/2017. Theo nhận định của giới phân tích, khả năng Fed tiến hành nâng lãi suất vào tháng 12/2017 vẫn còn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 2,8% lên 17,06 USD/ounce, giá bạch kim tăng 2,1% lên 976,6 USD/ounce. Đặc biệt giá palađi tăng 3,4% lên 916 USD/ounce - mức cao nhất kể từ tháng 2/2001.
Thị trường kim loại cơ bản tiếp tục nóng lên. Trong phiên vừa qua, giá kẽm trên Sàn giao dịch London đã tăng lên mức cao nhất trong vòng một thập kỷ qua, 2.982 USD/tấn, do giá thép tăng kéo dài 1 tháng đã thúc đẩy thị trường sản xuất nguyên liệu thô.
Mức giá này bằng với mức cao nhất kể từ tháng 10/2007. Giá kẽm đã tăng lên nhờ triển vọng thắt chặt nguồn cung đối với sản xuất thép của Trung Quốc.
Giá nhôm đạt mức cao nhất kể từ tháng 11/2014 với giá 2.065 USD/tấn do Trung Quốc cắt giảm sản lượng với nỗ lực giữ sạch môi trường vào mùa đông tới. Mức giá vượt qua 2.078,75 USD/tấn, giá tăng kể từ lần tăng cuối cùng vào tháng 9/2014
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch London giao dịch ở mức 6.379 USD/tấn. Giá đã giảm nhẹ nhưng vẫn đang ở mức cao nhất trong 2 năm rưỡi là 6.515 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường và cà phê đều giảm mạnh.
Đường thô giao tháng 10 giá giảm 0,19 US cent tương đương 1,5% xuống mức thấp nhất 7 tuần là 12,94 US cent/lb.
Đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng giảm 2,10 USD tương đương 0,6% xuống 361 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2015.
Cà phê arabica giao tháng 12 giá giảm 1,05 US cent tương đương 0,8% xuống 1,345 USD/lb, trong phiên có lúc giá xuống 1,3360 USD, thấp nhất kể từ 26/7. Cà phê robusta giao tháng 11 giá tăng 1 USD tương đương 0,05% lên 2.054 USD/tấn, trong phiên có lúc giá xuống thấp nhất 7 tuần rưỡi.
Mưa ở nước sản xuất lớn nhất thế giới – Brazil – tiếp tục gây áp lực giảm giá cà phê và đường, bởi hứa hẹn sẽ cho sản lượng bội thu trong niên vụ 2018/19.
Giá hàng hóa thế giới
| ĐVT | Giá | +/- | +/- (%) |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 46,78 | -0,77 | -0,16% |
Dầu Brent | USD/thùng | 50,27 | -0,53 | -1,00% |
Dầu thô TOCOM | JPY/kl | 33.630,00 | -660,00 | -1,92% |
Khí thiên nhiên | USD/mBtu | 2,90 | +0,01 | +0,17% |
Xăng RBOB FUT | US cent/gallon | 156,75 | +0,37 | +0,24% |
Dầu đốt | US cent/gallon | 157,86 | +0,42 | +0,27% |
Dầu khí | USD/tấn | 467,50 | -2,75 | -0,58% |
Dầu lửa TOCOM | JPY/kl | 48.450,00 | -520,00 | -1,06% |
Vàng New York | USD/ounce | 1.294,60 | +11,70 | +0,91% |
Vàng TOCOM | JPY/g | 4.530,00 | +20,00 | +0,44% |
Bạc New York | USD/ounce | 17,16 | +0,22 | +1,27% |
Bạc TOCOM | JPY/g | 60,30 | +0,90 | +1,52% |
Bạch kim giao ngay | USD/t oz. | 980,87 | +1,56 | +0,16% |
Palladium giao ngay | USD/t oz. | 922,98 | +7,68 | +0,84% |
Đồng New York | US cent/lb | 296,75 | +1,40 | +0,47% |
Đồng LME 3 tháng | USD/tấn | 6.532,00 | +153,00 | +2,40% |
Nhôm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.094,00 | +45,00 | +2,20% |
Kẽm LME 3 tháng | USD/tấn | 3.119,00 | +159,50 | +5,39% |
Thiếc LME 3 tháng | USD/tấn | 20.025,00 | -75,00 | -0,37% |
Ngô | US cent/bushel | 367,00 | +0,50 | +0,14% |
Lúa mì CBOT | US cent/bushel | 448,25 | +1,25 | +0,28% |
Lúa mạch | US cent/bushel | 257,25 | 0,00 | 0,00% |
Gạo thô | USD/cwt | 12,21 | +0,02 | +0,16% |
Đậu tương | US cent/bushel | 929,50 | +4,25 | +0,46% |
Khô đậu tương | USD/tấn | 299,20 | +1,10 | +0,37% |
Dầu đậu tương | US cent/lb | 33,34 | +0,16 | +0,48% |
Hạt cải WCE | CAD/tấn | 492,90 | +0,20 | +0,04% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 1.839,00 | -26,00 | -1,39% |
Cà phê Mỹ | US cent/lb | 134,50 | -1,05 | -0,77% |
Đường thô | US cent/lb | 12,94 | -0,19 | -1,45% |
Nước cam cô đặc đông lạnh | US cent/lb | 141,65 | +2,35 | +1,69% |
Bông | US cent/lb | 66,87 | +0,05 | +0,07% |
Lông cừu (SFE) | US cent/kg | -- | -- | -- |
Gỗ xẻ | USD/1000 board feet | 370,30 | -3,30 | -0,88% |
Cao su TOCOM | JPY/kg | 219,40 | +5,10 | +2,38% |
Ethanol CME | USD/gallon | 1,53 | -0,02 | -1,29% |
Nguồn tin: Vinanet