Bài viết chia sẻ quan điểm của Gregory Mankiw, giáo sư kinh tế tại ĐH Havard, về những rắc rối mà các nước trên thế giới đang gặp phải với hệ thống tài chính của mình. GS Mankiw là tác giả của nhiều bộ sách giáo khoa kinh tế được sử dụng rộng rãi.
Khi mà nền kinh tế thế giới đang vất vả phục hồi từ hàng loạt các cuộc khủng hoảng vừa qua, trật tự tài chính quốc tế đang là đối tượng thu hút mọi sự chú ý. Đặc biệt, tiền tệ và tỷ giá hối đoái đang phải chịu những sự soi xét kỹ càng.
Nhiều học giả và chính trị gia, kể cả tổng thống Obama, đều than phiền rằng đồng NDT đang ở dưới giá trị và cản trở sự phục hồi toàn cầu. Vấn đề của Hy Lạp dấy lên mối lo ngại liệu đồng euro có phải là một thử nghiệm thất bại và liệu tình hình của các quốc gia châu Âu có tốt hơn nếu họ có thể duy trì đồng tiền của mình.
Để nghiên cứu những vấn đề này, chúng ta phải bắt đầu từ một nguyên tắc cơ bản được giới kinh tế gia thừa nhận: nguyên tắc bộ ba bất khả thi.
Vậy nguyên tắc bộ ba bất khả thi là gì? Nó được rút ra từ sự thực rằng, ở hầu hết các quốc gia, các nhà hoạch định chính sách kinh tế đều muốn đạt được đồng thời cả ba mục tiêu sau:
Cho phép dòng vốn tự do lưu chuyển. Dòng vốn lưu chuyển linh hoạt sẽ giúp công dân của các quốc gia đa dạng hóa tài sản của mình bằng cách đầu tư ra nước ngoài. Nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn và công nghệ vào đầu tư trong nước.
Sử dụng chính sách tiền tệ như một công cụ để ổn định nền kinh tế. Ngân hàng trung ương có thể tăng lượng cung tiền và giảm lãi suất khi nền kinh tế suy thoái, và giảm cung tiền đồng thời với tăng lãi suất khi nó trở nên quá nóng.
Duy trì một tỷ giá hối đoái cố định. Một tỷ giá hối đoái không ổn định, tùy thời điểm biến động bởi sự đầu cơ, có thể là nguyên nhân dẫn đến một nền kinh tế bất ổn. Hơn thế nữa, một tỷ giá cố định sẽ khiến các hộ gia đình và doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc gia nhập vào nền kinh tế thế giới và lên kế hoạch cho tương lai.
Vấn đề là: Bạn không thể đạt được cả 3 mục tiêu trên. Nếu bạn chọn 2 trong 3 mục tiêu bất kỳ, lôgic hiển nhiên của nền kinh tế sẽ buộc bạn phải từ bỏ điều thứ 3.
Tại Mỹ, chúng ta đã chọn 2 điều đầu tiên. Bất kỳ người dân Mỹ nào đều dễ dàng đầu tư ra nước ngoài, đơn giản bằng cách gửi tiền cho một quỹ tương hỗ quốc tế, và những người nước ngoài có thể thoải mái mua cổ phiếu và trái phiếu ở thị trường hối đoái trong nước. Hơn thế, chính sách tiền tệ của Fed luôn cố gằng đề duy trì đầy đủ việc làm và ổn định giá cả. Nhưng kểt quả của quyết định này là sự bất ổn của giá đồng dollar trên thị trường hồi đoái quốc tế.
Ngược lại, TQ đã lựa chọn một phương án khác. Ngân hàng trung ương nước này quản lý chính sách tiền tệ và duy trì một sự kiểm soát chặt chẽ với tỷ giá hối đoái của đồng NDT. Nhưng để đạt được 2 mục tiêu này, họ phải giới hạn sự lưu chuyển của dòng vốn quốc tế, bao gồm cả khả năng đầu tư ra nước ngoài của người dân TQ. Nếu không có những hạn chế này, tiền sẽ ra vào đất nước này một cách tự do, buộc lãi suất trong nước phải biến động tương ứng với mức lãi suất của các ngân hàng nước ngoài.
Hầu hết các nước châu Âu chọn cách thứ 3. Bằng cách dùng đồng euro thay thế đồng franc của Pháp, đồng mark của Đức, đồng lira của Italia, đồng drachma của Hy Lạp và các đồng tiền khác, những quốc gia này đã loại bỏ tất cả những biến động của tỷ giá hối đoái trong khu vực đồng tiền chung euro. Ngoài ra, luồng vốn được tự do lưu chuyển giữa các nước. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho sự lựa chọn này là việc từ bỏ khả năng đưa ra các chính sách tiền tệ của riêng từng nước.
ECB định tỷ giá hối đoái cho cả châu Âu. Nhưng nếu tình hình của một nước – chẳng hạn như Hy Lạp – khác với phần còn lại của châu Âu, quốc gia đó sẽ không còn có thể sử dụng chính sách tiền tệ để giải quyết các vấn đề của mình.
Liệu có một cách tốt nhất để giải quyết nan đề này không? Có lẽ là không ngạc nhiên, nhiều kinh tế gia Mỹ ủng hộ chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi được quyết định bởi các nguồn lực thị trường của Hoa Kỳ. Quan điểm này là cơ sở cho phần lớn các chỉ trích nhắm vào chính sách tài chính của TQ. Nó cũng dẫn tới sự hoài nghi khi mà châu Âu bước những bước đầu tiên trên con đường tiến tới một đồng tiền chung vào đầu những năm 1990. Ngày nay, những hoài nghi đó có vẻ như đã được chứng minh bởi những rắc rối mà Hy Lạp đang gặp phải.
Nhưng giới kinh tế gia nên thận trọng khi đề xuất chính sách tỷ giá hối đoái, bởi còn lâu nữa thì cái gì tốt nhất mới được hiển thị rõ ràng. Sự thật là, việc Hoa Kỳ bám chặt lấy chính sách tỷ giá thả nổi cũng mới xảy ra gần đây. Từ thế chiến thứ II cho đến đầu những năm 1970, Mỹ tham gia vào hệ thống Bretton Woods, vốn cố định tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền chủ chốt. Hơn thế, vào năm 1998, khi hầu hết các nước châu Á đang bị nhấn chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính, Robert E.Rubin, sau này trở thành bộ trưởng tài chính Mỹ, ca ngợi chính sách tỷ giá hối đoái của TQ như là một “ốc đảo của sự ổn định” trong một thế giới hỗn loạn.
Kể cả việc sử dụng đồng euro cũng một phần dựa trên hình mẫu của Hoa Kỳ. Bất kỳ ai thực hiện một chuyến du lịch xuyên nước Mỹ đều không cần đổi tiền mỗi khi đi qua lãnh thổ các bang. Một đồng tiền chung cho 50 bang đã phát huy hiệu quả tốt đối với người dân Mỹ. Châu Âu đang khao khát những lợi ích tương tự.
Nói chính xác, châu Âu không giống với Hoa Kỳ, vốn có một chính quyền trung ương đủ mạnh để tái phân phối các nguồn lực giữa các vùng khi cần thiết. Quan trọng hơn, việc sử dụng ngôn ngữ và văn hóa chung cho phép người lao đồng di chuyển tự do giữa các vùng miền theo cách mà sẽ luôn luôn gặp khó khăn tại châu Âu. Một Liên bang châu Âu có thể là quá nhiều để người ta mơ tưởng đến.
Không nghi ngờ gì, hệ thống tài chính thế giới mang lại cho các nhà hoạch định chính sách những đánh đổi khó khăn. Người Mỹ không nên quá khẳt khe khi các nước khác, đối mặt với tam nan kinh tế, lại đưa ra những kết luận khác với chúng ta. Trong lĩnh vực này của chính sách kinh tế, cũng như nhiều lĩnh vực khác, luôn có chỗ cho sự bất đồng mà trong đó cả hai bên đều có lý.
New York Times