USD tăng giá là do mất cân đối trong cung cầu. Chỉ khi nào Việt Nam có nguồn cung USD mạnh mẽ, giảm thâm hụt thương mại thì tỷ giá mới ổn định. Song, trước mắt, những "cơn sốt" xuất phát từ việc thiếu USD cục bộ do chính những bất cập về chính sách tiền tệ gây ra. Hai tình huống, một sự lúng túng Năm 2009, Việt Nam cũng rơi và tình trạng căng thẳng khi tỷ giá USD/VND những tháng cuối năm bất ổn, buộc Ngân hàng Nhà nước phải điều chỉnh để đối phó. Lý do, Chính phủ hỗ trợ lãi suất cho VND khiến lãi suất vay VND năm ngoái giảm mạnh, song lại không hỗ trợ lãi suất USD khiến lãi suất USD trong tương quan với lãi suất VND tăng lên. Doanh nghiệp đổ xô đi vay VND giá rẻ, còn USD nếu có thì được cất giữ. Về nguyên tắc, bất cứ ai cũng biết khi VND giảm lãi suất có nghĩa là VND mất giá, còn USD tăng lãi suất là USD tăng giá so với VND. Và như thế, chính sách đã khiến tỷ giá tăng cục bộ ở Việt Nam. Với chính sách này, vô hình trung, đã tạo ra kỳ vọng tăng giá cho người dân. Cộng thêm những lo ngại khi tình hình kinh tế biến động, tâm lý thích cất giữ USD của người dân đã khiến USD thêm căng thẳng. Chính Ngân hàng Nhà nước cũng đã thừa nhận điều này và đã có hàng loạt giải pháp để giải quyết, như: hạ lãi suất huy động và cho vay của USD xuống rất thấp để thu hút người dân, DN từ mua USD sang vay USD. Thậm chí, phải cần đến cả một biện pháp hành chính từ Chính phủ là yêu cầu các doanh nghiệp là tập đoàn, tổng công ty lớn phải bán USD nhàn rỗi cho ngân hàng. Tuy nhiên, USD vẫn tiếp tục căng thẳng. Tỷ giá trong và ngoài ngân hàng vẫn chênh lệch lớn, kể cả sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện những bước đi mạnh như tăng tỷ giá liên ngân hàng và hạ biên độ giao dịch.
Trong năm 2010, tình hình lại có sự thay đổi. Do lãi suất VND lên cao từ đầu năm, 12% (huy động) và 15-17% (cho vay) khiến các doanh nghiệp khó khăn. Trong khi đó, dưới tác động của hàng loạt chính sách kinh tế, hành chính và điều chỉnh kỹ thuật, USD lại tìm được một khoảng thời gian ổn định đáng kể.
Chênh lệch lớn giữa lãi suất VND và USD đã khiến doanh nghiệp chọn giải pháp vay USD rồi đổi ra VND để lấy vốn kinh doanh.
Tín dụng USD tăng trưởng mạnh trong khi nguồn cung đầu vào không hẳn đã dồi dào khiến cho các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động USD dần lên.
Đặc biệt, do các khoản vay USD thường là ngắn hạn nên gần đến cuối năm, các doanh nghiệp càng đáo hạn nhiều. Đáo hạn, các doanh nghiệp đồng loạt đi mua USD để trả nợ.
Nói về điều này, ông Lê Đức Thúy - Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính, nhận định, chính sự tăng trưởng tín dụng USD cao, đến khi đáo hạn, các doanh nghiệp có nhu cầu mua USD lớn đã dẫn đến sự mất cân đối cục bộ gây ra cơn sốt tỷ giá đầu tháng 11 vừa qua.
Như vây, qua hai năm liền, tỷ giá đều có biến động bất thường. Dù hai tình huống khác nhau nhưng đều đi đến một hậu quả là biến động và bất ổn trên thị trường. Nguyên nhân lại đều do sự bất cập trong chính sách tiền tệ, hay nói đúng hơn là những bất cập giữa lãi suất và tỷ giá.
Chính vì thế, ông Lê Xuân Nghĩa - Phó Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính, cho rằng, trong ngắn hạn USD bao giờ cũng đi kèm với lãi suất. Lãi suất là nguyên nhân trực tiếp và ngắn hạn tạo nên kỳ vọng tăng giá USD. Chỉ khi nào xóa bỏ được kỳ vọng mới giải quyết được những bất ổn trên thị trường USD.
Biết rõ là thế, nhưng dường như cơ quan quản lý chưa có cách nào phòng đối phó hiệu quả và cơn sốt tỷ giá cứ cuối năm lại tăng lên.
Quá đà với tín dụng USD
Theo các con số được công bố chính thức, tính đến 14/10, tín dụng bằng đồng USD đã tăng khoảng 52% so với đầu năm. Trong khi đó, tín dụng bằng VND tăng có 14,6% và tổng tín dụng cho đến 14/10 là tăng 21,3%.
Nhìn vào con số tổng tín dụng vẫn được công bố một cách chung chung thì có vẻ không có gì đáng ngại, nếu so với mục tiêu tăng trưởng 25% cho cả năm. Tuy nhiên, con số tăng trưởng tín dụng USD lên tới 52% lại rất đáng lo ngại và dường như hơi quá đà.
Thực tế, việc tăng trưởng tín dụng USD quá mạnh đã được cảnh báo từ rất lớn. Từ tháng 5/2010, khi tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ liên tiếp tăng mạnh qua các tháng, tính chung đã tăng tới 20,23% và đã có rất nhiều khuyến cáo về nguy cơ tín dụng ngoại tệ gây sức ép lên tỷ giá cuối năm được đưa ra.
Bởi vì, chênh lệch lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam VND với USD khá lớn, do đó, tín dụng ngoại tệ gia tăng mạnh. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát giới hạn sự gia tăng này, sẽ tạo ra những hệ lụy trong tương lai.
Theo quy luật hàng năm của thị trường, từ đầu quý II trở đi, hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp sẽ trở nên sôi động, kéo theo nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ cũng tăng mạnh. Trong khi đó, tổng dư nợ tín dụng ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng. Điều này có thể gây áp lực lên lãi suất ngoại tệ và tỷ giá. Cần phải cẩn trọng với tín dụng USD.
Ngay tại thời điểm đó, đã có những thông tin cảnh báo. Con số được công bố chính thức từ Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết, tổng dư nợ tín dụng trong 7 tháng đầu năm đã tăng gần 13%.
Tuy nhiên, dư nợ lại có sự không cân đối.
Cụ thể, cho vay bằng VND chỉ tăng khoảng 1,3% so với tháng trước và khoảng 8,4% so với tháng 12/2009, nhưng tín dụng ngoại tệ lại tăng 1,6% so với tháng trước và tăng tới 34,4% so với tháng 12/2009. Trong khi đó, trong khi huy động bằng ngoại tệ giảm 0,25% so với tháng trước và giảm khoảng 2,4% so với tháng 12/2009.
Theo các chuyên gia, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đã tăng cao và đã đến giới hạn. Điều này dẫn đến nguồn ngoại tệ huy động vào và cho vay ra liên tục căng thẳng và gây ra sức ép lớn cho các ngân hàng trong cân đối cung cầu.
Ghi nhận từ thị trường, các chuyên gia phân tích của Chứng khoán Bảo Việt lo ngại, lãi suất huy động USD đang trong xu hướng tăng. Do tăng trưởng huy động không theo kịp được tốc độ tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ, nên những ngày gần đây lãi suất huy động USD đã liên tục đẩy lên mức cao.
Những tháng cuối năm, áp lực nhập siêu và các hợp đồng tín dụng bằng ngoại tệ sẽ gây áp lực lớn lên tỷ giá. Vì thế, tỷ giá chính là điều lo ngại nhất đối với kinh tế vĩ mô Việt Nam những tháng cuối năm nay. Nhu cầu thanh toán lên cao vào cuối năm cộng với việc đáo hạn của các hợp đồng tín dụng bằng ngoại tệ trong những tháng cuối năm sẽ là áp lực lên tỷ giá.
Chủ quan hay thiếu chiến lược
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn cho rằng, tín dụng ngoại tệ chỉ tăng mạnh so với năm 2009 vì đây là thời điểm các doanh nghiệp ít vay ngoại tệ do đã được hỗ trợ khi vay đồng Việt Nam ở mức lãi suất thấp. Về tổng thể, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ từ đầu năm tới nay là không quá cao và vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành hàng loạt biện pháp kiểm soát đối với các ngân hàng trong mua bán và cho vay USD để ngăn chặn. Bên cạnh đó, những kỳ vọng vào các nguồn kiều hối, FDI... khiến cho lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho rằng, mọi việc không có gì đáng lo ngại.
Tuy nhiên, thực tế lại diễn ra trong chiều hướng ngược lại. USD đã khan hiếm, tỷ giá tự do tăng cao mức kỷ lục, thị trường biến động khó lường... buộc Chính phủ lại phải ra tay bình ổn bằng các biện pháp cấp bách. Cũng như năm 2009, đây đều là những biện pháp ứng phó tức thì, chạy theo thị trường mà chưa hề có sự chủ động nào đáng kế.
Thực tế này khiến các chuyên gia từ Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, với bài toán USD, chúng ta dường như chưa bao giờ giải quyết vấn đề một cách triệt để. Cách làm hiện nay là cứ nhích dần, nhích dần cho qua thời điểm nóng nhất nhưng rồi sau đó lại tiếp tục đối đầu với khó khăn và đến khi không thể "chịu" hơn nữa thì lại bung ra.
Thực tế cho thấy, cơn "sốt" USD luôn âm ỉ và chỉ chờ cơ hội đến lần bùng lên mạnh mẽ nhưng mỗi lần như thế, động thái dễ đoán nhất của Ngân hàng Nhà nước là đưa ra các tuyên bố đầu tiên như: biến động là do các yếu tố tâm lý, thị trường chợ đen, găm giữ cho USD tăng giá là không có cơ sở.
Nhưng bất ngờ là sau đó không lâu lại có những bước điều chỉnh.
Điều này càng khiến cho lòng tin vào chính sách của người dân bị giảm sút và củng cố thêm kỳ vọng tăng giá USD, tạo cơ hội cho thị trường chợ đen có cơ hội hoành hành. Qua đó cũng mang lại cảm giác, dường như chúng ta luôn đi theo sau thị trường và để xoa dịu khi nóng bỏng nhất. Tựu chung, chúng ta có cảm giác đó như là một cuộc chạy theo mòn mỏi mà chưa bắt kịp.
Thị trường bất ổn có nguyên nhân tâm lý và đầu cơ, nhưng đã là thị trường thì luôn có kỳ vọng và đầu cơ. Vấn đề quan trọng nhất của nhà hoạch định chính sách là đừng tạo ra kỳ vọng đó; hoặc nếu tạo ra thì cùng phải có cách để không ai dám đánh cược với nó. Đó là nghệ thuật điều hành.
Việt Nam còn đối mặt với nhập siêu, thâm hụt cán cân thanh toán... trong dài hạn. Nhưng không thể chờ đến khi có xuất siêu, đến khi nguồn vốn quay trở lại Việt Nam để có một thị trường ổn định. Vấn đề là phải có chính sách hợp lý để bình ổn thị trường.
Chúng ta luôn đề cao nguyên tắc chủ động là linh hoạt, nhưng điều đó cần phải làm triệt để hơn nếu muốn hiệu quả. Không thể chủ quan, và rồi khi "nóng quá" lại can thiệp bất hợp lý vì thị trường khi bị bóp nghẹt thì chèn chỗ này, nó sẽ phình chỗ khác.
Nguồn: VEF