Năm 2009 là một năm đầy biến động của nền kinh tế toàn cầu nói chung và Trung Quốc nói riêng. Và tất nhiên, ngành thép cũng không nằm ngoài guồng quay đó. Đầu năm, đồ thị giá thép chỉ có một chiều đi xuống nhưng càng về cuối năm thì dần đi lên trở lại. Trong nửa cuối năm, nhu cầu tiêu dùng nội địa Trung Quốc đã dần khởi sắc, giá thép hồi phục khá nhanh và bền vững. Do đó, lượng sản phẩm đầu ra thực tế và dự tính trong nửa cuối năm được duy trì ổn định ở mức cao.
Theo thống kê của Hiệp hội sắt thép Trung Quốc (CISA), trong năm 2009, tổng sản lượng thép đầu ra thiết lập mức kỷ lục mới 5.6 tỷ tấn. Trong năm nay, giá thép diễn tiến theo đồ thị hình chữ U, giá thấp vào khoảng giữa năm và gần về cuối năm càng tăng mạnh.
Sự đảo chiều giá cả này cho thấy sự biến động khá lớn nhu cầu tiêu thụ thép trong nước và xuất khẩu. Theo dòng biến động giá thép có thể nhận thấy được năm đặc điểm lớn của ngành thép Trung Quốc trong năm 2009.
Đặc điểm thứ nhất, sản lượng thép nội địa đã sản xuất vượt xa chỉ tiêu đề ra. Chẳng hạn, thép thô đã vượt mức yêu cầu 5 tỷ tấn. Gói kích cầu tiêu dùng thép nội địa của chính phủ đã góp phần giảm thiểu thiệt hại cho ngành xuất khẩu khi nhu cầu của thế giới bị thu hẹp lại. Hơn nữa, gói kích cầu còn thúc đẩy quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa của quốc gia, ngược lại, khi quá trình trên diễn ra nhanh sẽ góp phần đẩy mạnh sản xuất thép do nhu cầu xây dựng cao. Trong tháng 10, sản lượng đầu ra thép thô bình quân mỗi ngày vào khoảng 16,693 triệu tấn, tăng 42.4% so với cùng kỳ năm 2008.
Thứ hai, đợt suy thoái kinh tế vừa qua đã gần như bóp ngạt ngành xuất khẩu thép của Trung Quốc, biến nước này từ một nước xuất siêu trở thành nước nhập siêu. Tháng 10 cùng kỳ năm 2008, Trung Quốc xuất siêu 43,28 triệu tấn thép thô nhưng cùng kỳ năm nay laị nhập siêu 400,000 tấn. Riêng lượng phôi và thép thô nhập khẩu trong năm nay có thể đạt khoảng 23,8 triệu tấn, xuất khẩu 25 triệu tấn. Trung Quốc nhập siêu suốt ba tháng 4,5,6 nhưng đến tháng 7 lại đảo chiều sang xuất siêu.
Đặc điểm thứ ba, nhu cầu tiêu dùng nội địa Trung Quốc năm nay biến động khá phức tạp. Sức mua thép dài có phần khả quan hơn thép tấm. Thị phần thép tấm và thép ống trong tháng 10 chiếm 50.1%, giảm 3.1% so với cùng kỳ năm ngoái, thép băng chiếm 35.2%, thấp hơn 3.6% cùng kỳ năm ngoái. Tổng sản lượng thép cao hơn cùng kỳ năm ngoái 753 triệu tấn trong đó thép dài đã chiếm 65.6%. Các hoạt động đầu tư, xúc tiến sản xuất tập trung rất nhiều vào mảng thép dài.
Trong mười tháng đầu năm, năng suất sản xuất và sức tập trung của các nhà máy quy mô lớn thể hiện sự yếu kém hơn các nhà máy quy mô nhỏ. Tổng sản lượng thép thô của bốn nhà máy lớn nhất nước chiếm 23.8%, trong khi đó tổng lượng của mười nhà máy top đầu chiếm 41.3%, thấp hơn năm 2008 lần lượt là 0.2% và 1.3%. Năng suất của các nhà máy trọng điểm tăng trưởng 6% , các nhà máy nhỏ hơn tăng trưởng ở mức trên 29%. Nhìn tổng thể, đến nữa cuối năm 2009 sản lượng mới có dấu hiệu tăng.
Đặc điểm thứ tư, sự tự vận động của thị trường tương đối ổn định, giá cả biến động qua nhiều giai đoạn. Giá thép tháng 10 năm 2008 quay về mức rất thấp bằng với năm 1994 và hồi phục nhẹ trong tháng 11 đến tháng 2 năm nay giá thép đã tăng 7%. Tiếp sau đó là những đợt giảm giá liên tục, đến tháng 4 tăng trưởng và ổn định hơn. Tháng 9 lại tiếp tục giảm giá, giữa tháng 10 hồi phục lại. Theo tổng kết, đến cuối tháng 11 chỉ số giá thép (MyspiC) đã dao động khoảng 100 điểm, tăng 2.03% so với cùng kỳ năm trước.
Đặc điểm thứ năm, mặt bằng lợi nhuận của các nhà máy sản xuất trong năm nay giảm sút khá nhiều. Các nhà máy nhỏ tập trung vào sản xuất thép dài nên lợi nhuận cao hơn các nhà máy lớn thiên về sản xuất thép tấm. Thống kê mười tháng đầu năm, lợi nhuận các nhà máy lớn và trung bình đạt 16,700 tỷ Nhân Dân tệ, giảm 20%. Doanh thu bán hàng thực tế là 17,700 tỷ Nhân Dân tệ, giảm 20.98%, lợi nhuận 375.85 tỷ Nhân Dân tệ, giảm 70 %. Đến cuối tháng 10 có 9/70 nhà máy đã bị thua lỗ 48.19 tỷ Nhân Dân tệ, giảm 12.9%. (Các số liệu đều so sánh với cùng kỳ năm ngoái.)
(Sacom)