Theo báo cáo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), tình hình thị trường thép Việt Nam tháng 11/2022 và 11 tháng năm 2022 tiếp tục giảm sút về sản xuất.
Theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), bối cảnh kinh tế toàn cầu năm 2023 tiếp tục gặp nhiều khó khăn với dự báo tăng trưởng chậm lại, lạm phát gia tăng, khả năng suy thoái trong ngắn hạn và các vấn đề về xung đột vũ trang, thiên tai, dịch bệnh… Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá tích cực và dự báo lạc quan về tăng trưởng năm 2022, 2023.
Báo cáo của VSA cho thấy, sản xuất thép thành phẩm đạt 1,825 triệu tấn, giảm 10,78% so với tháng 10/2022 và giảm 36,8% so với cùng kỳ 2021; Bán hàng thép các loại đạt 1,942 triệu tấn, tăng 2,87% so với tháng trước nhưng giảm 16,2% so với cùng kỳ.
Bán hàng thép tăng so với tháng trước nhưng giảm so với cùng kỳ.
Sản xuất thép thành phẩm 11 tháng đầu năm 2022 đạt 27,12 triệu tấn, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm 2021. Bán hàng thép thành phẩm đạt 25,1 triệu tấn, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó xuất khẩu đạt 5,763 triệu tấn, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Về nhập khẩu, tháng 10/2022, nhập khẩu thép thành phẩm vào Việt Nam đạt 831 triệu tấn với kim ngạch đạt 731 triệu USD, tăng 11,8% về lượng và tăng 2,86% về trị giá so với tháng trước, giảm 9,15% về lượng và giảm 21,43% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021;
Tính chung 10 tháng năm 2022, nhập khẩu thép thành phẩm các loại về Việt Nam khoảng 9,76 triệu tấn với trị giá hơn 10,29 tỷ USD, giảm 8,38% về lượng nhưng tăng 6,87% về giá trị so với cùng kỳ 2021. Các quốc gia cung cấp thép chính cho Việt Nam bao gồm: Trung Quốc (44,11%), Nhật Bản (15,65%), Hàn Quốc (11,11%), Đài Loan (9,74%) và Ấn Độ (8,55%).
Với xuất khẩu, tháng 10/2022, xuất khẩu thép thành phẩm của Việt Nam đạt 531 ngàn tấn, giảm 0,25% so với tháng trước và giảm 57% so với cùng kì năm 2021. Trị giá xuất khẩu đạt 434 triệu USD, tăng 1,17% so với tháng 9/2022 nhưng giảm 65,66% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính chung 10 tháng năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 6,99 triệu tấn thép giảm 36,92% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu đạt 6,945 tỷ USD giảm 28,92% so với cùng kỳ năm 2021. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là: Khu vực ASEAN (42,22%), Khu vực EU (16,92%), Hoa Kỳ (7,71%), Hàn Quốc (5,9%) và Hồng Kông (Trung Quốc) (5,67%).
Sự sụt giảm của thị trường tiêu thụ khi thị trường bất động sản chững lại, biến động tỷ giá ngoại tệ… khiến nhiều nhà máy trong tình trạng khó khăn, tồn kho cao. Các nhà máy có kết quả kinh doanh giảm sút, phải tính đến việc đóng lò, cắt giảm nhân sự... Các công ty thương mại, nhà phân phối chỉ nhập hàng khi có khách hàng, giao dịch trầm lắng.
Theo Tập đoàn Hòa Phát, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước với các sản phẩm thép nhìn chung vẫn chưa được cải thiện. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tổng lượng tiêu thụ giảm xuống mức thấp nhất từ đầu năm. Tiêu thụ thép xây dựng trong nước phục hồi nhẹ so với tháng trước nhưng thị trường xuất khẩu giảm hơn 70% so với cùng kỳ.
Việc tiêu thụ các sản phẩm thép hạ nguồn cũng gặp khó khăn do thị trường trầm lắng. Theo đó, sản lượng ống thép và tôn mạ đạt lần lượt 53.000, 22.800 tấn trong tháng 11/2022. Riêng xuất khẩu tôn mạ là 9.000 tấn, bằng 16% so với tháng 11/2021.
Lũy kế 11 tháng, Tập đoàn Hòa Phát đã sản xuất 7 triệu tấn thép thô, giảm 6% so với 11 tháng 2021. Tiêu thụ thép xây dựng, phôi thép, HRC đạt hơn 6,6 triệu tấn, cùng giảm mức 6%, chủ yếu do không có đơn hàng xuất khẩu phôi thép như năm trước. Trong đó, thép xây dựng chiếm 3,9 triệu tấn, tăng 11%, HRC đạt gần 2,5 triệu tấn, tăng 6% so với cùng kỳ. Qua 11 tháng, ống thép Hòa Phát bán 688.000 tấn, tăng 11%. Sản phẩm tôn mạ của Tập đoàn ghi nhận gần 300.000 tấn, giảm hơn 20% so với cùng kỳ năm trước.
Về tình hình thị trường nguyên liệu sản xuất thép, theo VSA, trái với đánh giá của thị trường, giá điện cực than chì (GE) tại Trung Quốc tăng vào cuối tháng 10 – đầu tháng 11 đã được thông báo ngắn gọn. Giá đã trở lại mức trước đây do nhu cầu không đủ.
Xu hướng giá tương tự đã được nhìn thấy ở các thị trường xuất khẩu. Biên lợi nhuận của các nhà sản xuất điện cực UHP 600 phần lớn vẫn ổn định so với tháng trước (215 - 250 USD/tấn một tháng trước). Các nhà sản xuất đã cố gắng tăng giá vào đầu tháng 11, nhưng họ phải điều chỉnh giá vào cuối tháng.
Cuộn cán nóng HRC ngày 9/12/2022 ở mức 571 USD/Tấn CFR cảng Đông Á, tăng mạnh 83 USD/Tấn so với mức giá giao dịch đầu tháng 11/2022. Nhìn chung, thị trường thép cán nóng (HRC) thế giới biến động, khiến thị trường HRC trong nước khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất thép dẹt (CRC, tôn mạ, ống thép, v.v) sử dụng HRC làm nguyên liệu sản xuất.
Trong tháng 11/2022, thép phế liệu nội địa tăng nhẹ khoảng 200 đồng/kg, giữ mức từ 8.200 đến 9.200 đồng/kg. Giá thép phế liệu loại HMS 1/2 80:20 nhập khẩu cảng Đông Á ở mức 350 - 366 USD/tấn CFR Đông Á từ cuối tháng 11, giảm 28 USD/tấn so với hồi đầu tháng 11/2022.
Quặng sắt loại 62%Fe ngày 9/12/2022 giao dịch ở mức 110,45 - 110,95 USD/Tấn CFR cảng Thiên Tân, Trung Quốc, tăng khoảng 22,75 USD/tấn so với thời điểm đầu tháng 11/2022.
Giá than mỡ luyện cốc (Hard coking coal) xuất khẩu tại cảng Úc ngày 9/12/2022 giao dịch ở mức khoảng 230,25 USD/tấn FOB, giảm mạnh 71,75 USD/tấn so với đầu tháng 11/2022.
Nguồn tin: Kinh tế & Đô thị