Được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 12% vào năm nay, ngành thép đang là một trong những ngành có sự hồi phục tốt và nhiều triển vọng.
Tuy nhiên, cánh cửa hội nhập càng rộng mở, không chỉ mang đến nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp thép Việt, mà còn đặt ra nhiều thách thức.
Bởi khi thuế suất nhập khẩu hàng hóa bằng 0%, sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp vô cùng lớn, cùng với đó là những thách thức đến từ các biện pháp phòng vệ thương mại từ thị trường xuất khẩu.
Khi thuế suất nhập khẩu hàng hóa bằng 0%, sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp vô cùng lớn. Ảnh: TTXVN
Ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho hay, mặc dù có sự tăng trưởng tốt trong năm qua, song Việt Nam vẫn phải nhập khẩu số lượng lớn nguyên liệu và bán thành phẩm phục vụ cho sản xuất. Đặc biệt, đối với các mặt hàng Việt Nam còn dư khả năng sản xuất như phôi thép vẫn nhập khẩu hơn 1,1 triệu tấn, chiếm 12,6% thị phần phôi cả nước.
Tổng kim ngạch nhập khẩu/xuất khẩu của ngành thép năm 2016 là 9,1/2,4 tỷ USD. Như vậy, ngành thép đang phải nhập siêu rất lớn để phục vụ cho nhu cầu sản xuất.
Theo báo cáo mới đây của Hiệp hội Thép Việt Nam, nhập khẩu thép thành phẩm trong Quý I đạt hơn 3,56 triệu tấn, với kim ngạch nhập khẩu đạt 2,2 tỷ USD, tăng 13% về lượng và tăng 64% về kim ngạch nhập khẩu. Mặc dù nhập khẩu thép đã có giảm so với cùng kỳ nhờ tác động của các biện pháp phòng vệ thương mại kịp thời.
Nhưng nhập khẩu một số mặt hàng vẫn tăng cao so với cùng kỳ, như: thép tôn mạ màu hơn 84.000 tấn, tăng 40%; thép thanh que hình hơn 141.000 tấn, tăng 113%; thép cuộn cán nguội gần 160.000 tấn, tăng 158%... Ngoài ra, nhập khẩu ống thép hàn, dây thép, mạ loại khác, thép không gỉ... cũng tăng cao.
Về việc nhiều sản phẩm thép nhập khẩu tăng mạnh trong thời gian gần đây như thép dài, phôi..., Bộ Công Thương đã ban hành liên tiếp các biện pháp tự vệ tạm thời để bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Sau các biện pháp tự vệ tạm thời, Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối với mặt hàng này.
Ông Nguyễn Văn Sưa cho biết, tình hình xuất khẩu và tiêu thụ thép của các doanh nghiệp nội sẽ tiếp tục gặp khó trong năm 2017. Trước đây, nếu thép Việt Nam chủ yếu xuất sang thị trường khối ASEAN, nhưng từ năm 2016, thép Việt Nam chuyển hướng xuất sang thị trường Mỹ và hiện lượng thép xuất sang thị trường này đã chiếm tới gần 27% tổng lượng thép xuất khẩu với mặt hàng chủ yếu là tôn mạ.
Trong khi đó, Mỹ đang điều tra vụ kiện chống lẩn tránh thuế của Việt Nam, có liên quan đến việc nghi ngờ thép Trung Quốc giá rẻ “đội lốt” hàng Việt để xuất sang Mỹ.
Ông Sưa lý giải, ngành thép Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu là do quy trình sản xuất trong nước chưa đồng bộ, năng lực sản xuất thép cơ khí chế tạo gần như chưa có; đồng thời nhiều sản phẩm nguyên vật liệu đầu vào như thép cuộn cán nóng, phôi… vẫn chưa tự sản xuất được; dẫn đến phải nhập khẩu từ nước bạn, làm chậm quá trình sản xuất cũng như tăng gánh nặng chi phí.
Ngoài ra, cũng phải kể đến một lượng thép lớn gian lận thương mại, đội lốt thép hợp kim vẫn chưa được xử lý triệt để.
Rõ ràng, cùng với sự phục hồi của thị trường xây dựng thì hội nhập càng sâu rộng, ngành thép Việt Nam sẽ có thêm cơ hội để đưa sản phẩm sang các nước và đó là lý do để ngành thép đặt mục tiêu tiếp tục tăng trưởng trong thời gian tới.
Tuy nhiên, có một thực tế là khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu thì những nước nhập khẩu sẽ tăng cường các biện pháp phòng vệ. Ngay cả các nước ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Indonesia... đã nhiều lần kiện phòng vệ thương mại Việt Nam trong năm 2016.
Theo thống kê của Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đến hết tháng 7/2016, chỉ tính riêng trong số gần 100 vụ kiện chống bán phá giá thì ngành thép Việt đã “dính” tới khoảng 20 vụ.
Đại diện lãnh đạo Tổng Công ty Thép Việt Nam (VnSteel) cho hay, xuất khẩu ngày càng khó khăn do vấp phải các rào cản, phòng vệ thương mại từ các nước. Do vậy, Tổng Công ty sẽ tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng việc tăng cường phân tích dự báo thị trường, tổ chức sản xuất kinh doanh linh hoạt, phù hợp với diễn biến của thị trường.
Song VnSteel cũng đề nghị Chính phủ có các chính sách, giải pháp để kiểm soát và ngăn chặn việc nhập khẩu tràn lan các mặt hàng mà ngành thép trong nước đã sản xuất được; ngăn chặn sự nhập khẩu ồ ạt thép giá rẻ từ Trung Quốc, chống gian lận thương mại, gây thiệt hại cho các nhà sản xuất trong nước.
Công ty TNHH Thép SeAH Việt Nam được biết đến là nhà sản xuất ống thép có tiếng tại nhiều thị trường như Mỹ, Nhật Bản và Australia. Trước nguy cơ này, Ban lãnh đạo SeAH cho rằng, việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ góp phần tăng lượng sản phẩm tiêu thụ và giảm bớt hàng tồn kho.
Tuy nhiên, để làm được điều này các doanh nghiệp thép phải chú trọng đầu tư kỹ thuật để tăng năng suất, giảm giá thành và nâng cao chất lượng để tăng khả năng cạnh tranh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thép trong nước phải nỗ lực xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm của mình tại các thị trường mới như Mỹ, châu Phi, Trung Đông…
Xuất khẩu tạm thời có thể là một giải pháp giúp doanh nghiệp giải phóng hàng hóa trong lúc thị trường nội địa vẫn còn khó khăn, nhưng xét cho cùng, về lâu dài thị trường trong nước vẫn là cốt lõi, quyết định. Việc doanh nghiệp đầu tư và nâng cao chất lượng sẽ giúp giảm thiểu chỉ tiêu tiêu hao, tiết giảm chi phí sản xuất thông qua quy trình kinh doanh khép kín, qua đó tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
Ông Nguyễn Văn Sưa cũng cho biết, trong năm qua, VSA đã tích cực tham gia góp ý kiến về Dự thảo Thông tư Quy định định mức tiêu hao năng lượng trong ngành công nghiệp thép của Bộ Công Thương; kiến nghị về Nghị định 38/2015/NĐ-CP và Thông tư số 41/2015/TT-BTNMT trong việc tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu thép phế về phục vụ sản xuất thép…
VSA đã cùng các đơn vị thành viên đề nghị Chính phủ khởi xướng điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước với phôi thép và thép dài, tôn mạ màu; đối với tôn mạ kẽm và tôn lạnh nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc…
Lực lượng doanh nghiệp Việt Nam dù chưa phải đủ mạnh và giàu kinh nghiệm, nhưng vẫn có khả năng đấu tranh phòng vệ trong bối cảnh hội nhập.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp khi bị cơ quan nước ngoài áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại phải có tinh thần hợp tác, kiên trì, không được tránh né. Nếu tránh né, cơ quan phụ trách phòng vệ nước ngoài sẽ được quyền áp dụng ngay vì chúng ta bất hợp tác.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần phải xây dựng đội ngũ chuyên nghiệp để sẵn sàng trong quá trình điều tra, chuẩn hóa các số liệu, không chỉ phục vụ cho các cơ quan điều tra nước ngoài mà còn phục vụ tốt cho chính doanh nghiệp khi đề nghị Cục Quản lý Cạnh tranh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất của ngành mình.../.
Nguồn tin: Bnews