Theo Dự báo hàng hóa và chuỗi cung ứng của Thomson Reuters dựa trên số liệu tại cảng và theo dõi các tàu hàng, nhập khẩu than bằng đường biển là 20,03 triệu tấn trong tháng 10. Đây là số liệu cao nhất một tháng kể từ khi Thomson Reuters bắt đầu đánh giá số liệu trong tháng 1/2015 và cho thấy rằng nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc vẫn không hề suy giảm mặc dù giá than nhiệt và than cốc tăng vọt.Số liệu đường biển này không chính xác phù hợp với số liệu hải quan Trung Quốc do không gồm lượng nhập khẩu từ Triều Tiên và đường bộ từ Mông Cổ, cũng như than nhập khẩu đến từ các tàu nhỏ. Số liệu này cũng được điều chỉnh nhẹ từ những ngày tới do có thêm nhiều số liệu khi các tàu dỡ hàng.
Tuy nhiên, nhập khẩu bằng đường biển là những gì quan trọng từ góc độ giá cả thị trường do hàng hóa từ Triều Tiên và Mông Cổ có xu hướng không ảnh hưởng tới giá khu vực này. Lượng than nhập bằng đường biển trong tháng 10 cao hơn gần 3 triệu tấn so với 17,06 triệu tấn ước tính cho tháng 9, tăng đáng kể.
Giá than nhiệt của Australia, chỉ số Newcastle hàng tuần tăng lên 105,81 USD/tấn trong tuần trước, cao nhất trong 4 năm rưỡi và cao hơn 109% so với cuối năm ngoái.
Than cốc cứng Australia, than sử dụng để luyện thép, tăng lên 257,7 USD/tấn trong hôm 31/10, hơn gấp ba lần mức 78,2 USD vào cuối năm ngoái.
Bất chấp những thành tựu đạt được, rất khó khăn để thấy giá có thể duy trì được đặc biệt kho trong lịch sử thấy rằng bất cứ đợt tăng giá khả quan thường theo sau bởi một đợt sụt giảm.
Trong khi đó quyết định cắt giảm sản lượng than trong nước của Trung Quốc không còn nghi ngờ là động lực thức đẩy sự tăng giá than trong năm nay, câu hỏi là Trung Quốc có thể đảo ngược xu hướng nhanh chóng thế nào và các nhà sản xuất than có thể tăng sản lượng nhanh thế nào để đáp ứng nhu cầu của Trung Quốc.
Tổng sản lượng than của Trung Quốc đã giảm 10,5% xuống 2,46 tỷ tấn trong 9 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm 2015, trong khi nhập khẩu tăng 15,2% thành 180,18 triệu tấn.
Tính dưới dạng khối lượng, sản lượng của Trung Quốc giảm khoảng 300 triệu tấn trong 9 tháng đầu năm 2016, trong khi nhập khẩu tăng khoảng 23 triệu tấn.
Điều này cho thấy rằng nhập khẩu tăng chỉ bù cho khoảng 7,6% sản lượng sụt giảm trong nước.
Điều này có nghĩa là những gì Trung Quốc làm với sản lượng trong nước sẽ có ảnh hưởng lớn hơn tới giá than trong tương lai hơn bất cứ điều gì các nhà xuất khẩu than như Autralia, Indonesia và Nam Phi có thể thực hiện.
Trung Quốc đã yêu cầu các công ty khai mỏ nhanh chóng tăng sản lượng trước khi mùa đông bắc và để hạn chế giá tăng.
Đối với than nhiệt giá trị nhiệt lượng 5.500 kilocalories/kg, có giá khoảng 660 NDT/tấn, tương đương với khoảng 97,48 USD/tấn, thấp hơn chút ít so với giá FOB của than Newcastle, mà chất lượng tương đương.
Điều này cho thấy rằng ngay sau khi Trung Quốc có thể tăng sản lượng than trong nước, giá của than vận chuyển bằng đường biển sẽ có thể giảm xuống một mức nó có thể cạnh tranh khi cước vận chuyển và thuế được bổ sung.
Trung Quốc có thể nhanh chóng tăng sản lượng than không? Có hay không.
Điều tích cực là việc giảm ngày làm việc có thể được đảo ngược nhanh chóng, sản lượng khai thác từ các mỏ hiện có có thể tăng.
Điều tiêu cực là việc khởi động lại các mỏ đã ngừng phải mất một thời gian và các chủ sở hữu phải thuyết phục rằng giá tăng là ổn định trước khi cam kết vồn mới.
Điều này áp dụng cho các mỏ tại các nước đang xuất khẩu là tốt, nơi nhiều mỏ đã bị đốt bởi 5 năm thua lỗ từ 2011 tới 2015, một giai đoạn ảm đạm cho thấy chi phí hoạt động và vốn sụt giảm và nhiều mỏ giữ ở chế độ tồn tại.
Hiện nay nhiều mỏ than rất hoan nghênh với giá tăng và xây dựng lại dự trữ tiền mặt, trong khi đợi xem sự tăng giá này có chứng minh ổn định không.
Điều này cho thấy rằng giá sẽ vẫn mạnh, ít nhất cho đến khi thị trường thấy sản lượng của Trung Quốc phản ứng với những lời yêu cầu tăng chính thức như thế nào.
Nguồn tin: Vinanet