Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Nhập khẩu thép và phôi thép tiếp tục giảm

Ước tính cả năm 2009, nhập khẩu thép và phôi thép đạt trên 12 triệu tấn, tăng 10,7% so với năm 2008. Trong đó, lượng phôi thép nhập về đạt 2,38 triệu tấn, giảm 0,41%; lượng thép thành phẩm nhập khẩu đạt 6,7 triệu tấn, tăng 18%; thép phế liệu đạt 2,3 triệu tấn, tăng 55%; các loại thép lá được mạ, thép cuộn, thép tấm lá đen đều tăng khoảng 20% so với năm ngoái.

Ngành thép tăng trưởng đáng kể trong năm 2009 là nhờ tác động của biện pháp kích cầu kinh tế của Chính phủ. Tuy nhiên, bước sang năm 2010, ngành thép sẽ phải đương đầu với một số khó khăn mới, khi giá các nguyên liệu cơ bản như quặng sắt, than, phôi thép, thép phế, điện năng và một số loại nguyên liệu khác chắc chắn sẽ cao hơn so với năm 2009. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thành thép sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh rất khốc liệt do cung ngày càng lớn hơn cầu, trong khi vấn có nhiều dự án thép được đầu tư xây dựng.

Theo cam kết gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO), từ năm 2010, một số sản phẩm thép sẽ không còn được hưởng ưu đãi và bảo hộ cao về thuế nhập khẩu.Việc bổ sung thêm một số dự án mới về thép trong năm 2010 cũng sẽ làm khoảng cách cung-cầu về thép xa thêm, dẫn đến cạnh tranh khốc liệt giữa các thành phần kinh tế ở thị trường trong nước.

Các sản phâm được xem là có sự cạnh tranh khốc liệt nhất bao gồm: thép xây dựng, thép cuộn cán nguội, ống thép hàn, tôn mạ kim loại, sơn phủ màu. Theo thống kê của VSA, năng lực sản xuất của ngành thép tính tới cuối năm 2009 đạt 1,8 triệu tấn gang từ lò cao, 4,5-4,7 triệu tấn phôi thép vuông, 7 triệu tấn thép xây dựng các loại, 2 triệu tấn thép cuộn cán nguội, 1,2 triệu tấn thép lá được mạ và 1,3 triệu tấn ống thép.

 Theo ước tính của VSA, năm 2009 lượng tiêu thụ thép khoảng 3,986 triệu tấn thép xây dựng, 300,000 tấn thép cán nguội, 447,000 tấn ống thép và 401,000 tấn tôn mạ.

Như vậy, so với mức tiêu thụ thực tế các sản phẩm thép trong năm 2009, có thể thấy rõ khoảng cách giữa cung và cầu. Các doanh nghiệp thép sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt do cung ngày càng lớn hơn cầu, trong khi vẫn có nhiều dự án thép được đầu tư xây dựng.

Cung ứng phôi thép vuông cho các nhà máy sản xuất thép xây dựng sẽ vượt 60%. Bên cạnh đó, các sản phẩm thép cùng loại, nhưng giá rẻ hơn của Trung quốc, Nga và các nước ASEAN vẫn luôn sẵn sàng thâm nhập thị trường Việt Nam, trong khi hàng rào bảo vệ phải tuân thủ luật quốc tế, tức là phải đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể, chứ không đơn thuần dùng biện pháp cấm hay đánh thuế cao.

Ước tính cả năm 2009, nhập khẩu thép và phôi thép đạt trên 12 triệu tấn, tăng 10,7% so với năm 2008. Trong đó, lượng phôi thép nhập về đạt 2,38 triệu tấn, giảm 0,41%; lượng thép thành phẩm nhập khẩu đạt 6,7 triệu tấn, tăng 18%; thép phế liệu đạt 2,3 triệu tấn, tăng 55%; các loại thép lá được mạ, thép cuộn, thép tấm lá đen đều tăng khoảng 20% so với năm ngoái.

Còn theo số liệu thống kê chính thức tháng 11/2009, Việt Nam nhập về 825,18 ngàn tấn thép và phôi thép với kim ngạch 495,4 triệu USD, giảm 6,41% về lượng và giảm 9,54% về trị giá so với tháng trước. Nhưng so với cùng kỳ năm 2008 lại tăng rất mạnh, tăng tới275,78% về lượng và tăng 121,59% về trị giá. Tính chung 11 tháng năm 2009, cả nước ta nhập về 8,93 triệu tấn với trị giá 4,84 tỷ USD, tăng 18,42% về lượng song lại giảm 23,07% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008.

Trong tháng 11/2009, Nga là thị trường cung cấp thép và phôi thép lớn nhất cho nước ta với 155,82 ngàn tấn với trị giá đạt 75,88 triệu USD, tăng 4,46% về lượng và tăng 4,71% về trị giá. Trong đó, lượng phối thép nhập về từ thị trường này đạt trên 86 ngàn tấn với giá nhập về đạt trung bình 456 USD/tấn, CIF, cảng Hải Phòng, tăng 23 USD/tấn so với giá nhập khẩu tháng trước. Ngoài ra, thị trường này còn cung cấp cho nước ta, thép cuộn cán nóng với giá dao động từ 499 đến 564 USD/tấn; thép cuộn cán nguộn với giá 485 đến 550 USD/tấn…. Tính đến hết tháng 11 năm nay, tổng lượng thép và phôi thép nhập về từ thị trường này đạt 1,66 triệu tấn với trị giá 741,53 triệu USD, tăng 185,17% về lượng và tăng 78,64% về trị giá so với 11 tháng năm 2008.

Mặc dù, nhập khẩu thép và phôi thép về từ Trung Quốc giảm 23,22% về lượng và giảm 19,56% về trị giá so với tháng trước. Nhưng so với cùng kỳ năm 2008, lại tăng tới 1334,19% về lượng và tăng 53,22% về trị giá, đạt 124,24 ngàn tấn, trị giá gần 82 triệu USD. Chủng loại thép nhập về từ thị trường này là thép tấm cuốn cán nóng chưa tráng phủ với giá dao động từ 539 đến 650 USD/tấn, tuỳ tường kích thước; giá nhập khẩu tôm tấm cuộn nóng chưa tráng phủ đạt 650 USD/tấn, CIF, cảng Hải Phòng; giá thép tấm hong hợp kim nhập về dao động ở mức từ 492 đến 532 USD/tấn; giá thép lá cán nguội chưa tráng phủ nhập về từ 601 đến 670 USD/tấn…. Tính chung 11 tháng năm 2009, tổng lượng thép và phôi thép nhập về từ Trung Quốc đạt 1,12 triệu tấn với kim ngạch 699,37 triệu USD, giảm 60% về lượng và giảm69,16% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.

Bên cạnh đó, lượng nhập khẩu thép và phôi thép về từ thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cũng giảm so với tháng trước. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm 2008, lại tăng khá mạnh, tăng gấp 2 - 3 lần.

Tham khảo thị trường cung cấp thép và phôi thép cho Việt Nam tháng 11 và 11 tháng năm 2009

Thị trường

 

Tháng 11/2009

% so T10/09

% so T11/08

11 tháng 2009

% so 11T/08

Lượng ( tấn)

Trị giá (ngàn$)

Lượng

Trị giá

Lượng

Trị giá

Lượng

( tấn)

Trị giá (ngàn$)

Lượng

Trị giá

Tổng

825.180

495.400

-6,41

-9,54

275,78

121,59

8.931.800

4.846.760

18,42

-23,07

Nga

155.820

75.880

4,46

4,71

623,86

603,23

1.664.510

741.530

185,17

78,64

Trung Quốc

124.230

81.990

-23,22

-19,56

134,19

53,22

1.124.260

699.370

-59,95

-69,16

Nhật Bản

110.810

73.010

-19,84

-17,03

158,98

71,8

1.297.750

737.980

14,33

-23,01

Hàn Quốc

77.070

54.400

-16,17

-14,25

240,1

106,9

883.630

574.020

49,88

0,1

Đài Loan

71.230

55.360

-10,39

-5,08

142,4

56,81

1.078.710

650.910

57,52

-0,93

Braxin

39.380

20.730

99,16

118,57

 

 

59.750

31.440

-1,01

-20,34

Malaysia

36.580

19.890

-60,74

-59,51

1.555

505

661.560

313.160

133,32

33,84

Hoa Kỳ

24.650

13.020

-3,69

-2,1

6.842

1.528

111.940

53.550

30,49

-16,55

Nam Phi

17.790

9.160

-33,18

-26,35

4.085

1.239

115.860

52.410

294,76

107,68

Thái Lan

14.940

9.810

0

-17,73

25,04

-4,9

296.310

163.930

75,26

10,12

Ucraina

12.480

6.680

-56,81

-55,07

10.130

2.855

268.370

117.570

-12,38

-41,66

Indonesia

5.120

3.820

-43,7

-36,18

-69,2

-83,48

125.870

81.170

10,03

-37,77

ấn Độ

4.920

4.890

-49,45

-41,8

115,83

38,67

155.240

93.410

2,31

-28,34

Australia

4.230

2.750

33,32

27,4

-3,54

-21,91

64.070

30.910

-46,62

-66,46

Đức

3.200

1.970

-32,75

-36,89

425,78

57,65

80.310

39.100

479,16

147,75

Bỉ

2.690

1.450

244,8

205,52

1.292

430,45

26.020

14.330

21,18

-19,3

Canada

1.490

720

-94,98

-95,27

 

 

147.860

63.660

1.562

1.090

Tây Ban Nha

1.060

1.210

142,43

18,66

1.662

484,41

22.380

16.310

1.434

299,53

Newzealand

990

440

734,45

1,068,00

252,13

105,11

6.140

2.410

-20,06

-44,3

Singapore

640

1.740

-28,43

-33,36

-92,11

-73,43

14.640

21.340

-84,49

-77,98

Italy

400

350

36,15

6,39

837,21

362,33

4.710

4.190

-49,52

-43,75

Hà Lan

320

410

-13,82

-11,74

66,49

-28,5

12.560

7.800

-0,7

-36,52

Thụy Điển

140

110

-7,84

31,97

-64,48

-55,9

9.260

4.260

5,91

-20,71

Pháp

120

200

-78,53

-49,49

16,04

115,73

33.980

14.920

722,69

159,45

Anh

200

140

-22,57

2,28

201,52

6,9

5.090

2.670

12,9

-24,97

(Vinanet)

ĐỌC THÊM