Báo cáo của Văn phòng Kinh tế trưởng Australia cho biết, sự thay đổi dài hạn về nhu cầu nguồn than nhiệt từ các nền kinh tế tiên tiến sang Châu Á đang buộc các thị trường than toàn cầu phải điều chỉnh theo một quá trình chuyển đổi phức tạp.
Trong khi sản xuất than ở Mỹ đang giảm nhanh trong bối cảnh cạnh tranh trong nước ngày càng tăng từ sản xuất khí đốt, nhập khẩu sang các quốc gia Châu Âu dự kiến sẽ giảm đặc biệt nhanh chóng do tốc độ ngừng hoạt động của các nhà máy than.
Báo cáo cho biết: “Động lực toàn cầu hướng tới các nguồn năng lượng carbon thấp và sự sụt giảm mạnh trong đường ống xây dựng nhà máy than đã thay đổi động lực cho các nhà đầu tư và thợ mỏ, ngăn cản đầu tư dài hạn vào than đá bất chấp sự gia tăng giá gần đây”.
Nhập khẩu vào Áo, Bỉ và Thụy Điển đã giảm xuống 0 sau khi các nhà máy điện cuối cùng ở mỗi nước đóng cửa gần đây, báo cáo lưu ý rằng Đan Mạch, Phần Lan, Ý và Tây Ban Nha dự kiến sẽ giảm nhập khẩu về 0 vào cuối những năm 2020, trong khi Vương quốc Anh đang trên đà đóng cửa nhà máy điện than cuối cùng vào năm 2024.
Báo cáo cho biết Đức có khả năng thúc đẩy việc đóng cửa các nhà máy điện than 2.5 GW vào cuối năm 2024. Tuy nhiên, họ lưu ý rằng nhu cầu đảm bảo năng lượng của nước này có thể dẫn đến việc đóng cửa các nhà máy nhiệt điện than chậm trễ và thậm chí có thể dẫn đến việc mở cửa trở lại các nhà máy tạm thời.
Bốn trong số sáu nhà máy nhiệt điện than của Orat Rabin dự kiến sẽ đóng cửa ở Israel vào năm 2022 và các nhà máy còn lại dự kiến sẽ được thay thế bằng nhiệt điện khí, báo cáo cho biết thêm, nhập khẩu than nhiệt cho Israel sẽ giảm xuống bằng 0 vào năm 2025.
Báo cáo cho biết: “Năm 2030 có vẻ là một bước ngoặt quan trọng, đại diện cho một ngày kết thúc giai đoạn điện than đối với nhiều quốc gia OECD, nhưng lại là ngày nhu cầu cao nhất đối với một số quốc gia trên khắp Châu Á”. “Sự chuyển đổi cơ bản của các nguồn năng lượng trên phần lớn thế giới có thể dẫn đến sự biến động đáng kể trong thương mại than và giá than trong thời gian tạm thời”.
Giá than cao liên tục đã không thúc đẩy đầu tư vào các dự án than, điều này sẽ khiến giá than khó điều chỉnh và dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh và dẫn đến suy giảm cơ cấu.
Triển vọng nhập khẩu than châu Á
Trong khi đó, nhập khẩu sang Châu Á dự kiến sẽ bù đắp phần lớn sự sụt giảm ở những nơi khác trong giai đoạn triển vọng, theo báo cáo, việc sử dụng than ở Trung Quốc có khả năng vẫn duy trì mạnh mẽ, với việc chính phủ gần đây đã loại bỏ mục tiêu cường độ năng lượng khỏi mục tiêu năng lượng của mình. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng tiếp tục tìm cách giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu than, điều này có thể xảy ra thông qua sản xuất trong nước tăng.
Báo cáo cho biết nhu cầu than ở Ấn Độ dự kiến sẽ tăng đều đặn trong giai đoạn triển vọng, nhập khẩu sang Ấn Độ có thể tăng 20 triệu tấn lên 173 triệu tấn vào năm 2027, với tốc độ tăng trưởng chậm lại sau đó trong bối cảnh sản lượng trong nước dự kiến tăng.
Trong khi đó, hiệu quả và khả năng cạnh tranh về giá trong sản xuất nhiệt điện than ở Malaysia và kế hoạch xây dựng các nhà máy mới ở Philippines được kỳ vọng sẽ giữ vững nhu cầu nhập khẩu.
Báo cáo cho biết, nhu cầu điện gia tăng và khó khăn trong việc thúc đẩy sản xuất trong nước ở Việt Nam có thể khiến nhập khẩu than tăng lên đến năm 2025 và đạt mức cao nhất vào năm 2030, báo cáo cho biết thêm Thái Lan có thể bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp vào năm 2027 với sản lượng điện than dự kiến sẽ giảm xuống 10%. đến năm 2030.
Nó cho biết: “Nhập khẩu đến các quốc gia ngoại trừ Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc dự kiến sẽ tăng từ 221 triệu tấn vào năm 2021 lên 239 triệu tấn vào năm 2027”. Nhập khẩu dự kiến sẽ ở mức vừa phải đối với Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc do các cam kết của họ đối với chính sách carbon "net zero’".
Nguồn tin: satthep.net