Ngày 9.11, ông Đinh Văn Chung - Phó Giám đốc Công ty Thép Hòa Phát Dung Quất - cho biết, Hòa Phát đang đề xuất với Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc nhận chìm khoảng 15 triệu m3 vật chất trên vùng biển của tỉnh Quảng Ngãi.
Theo ông Đinh Văn Chung, toàn bộ vật chất này thành phần có đến trên 87% là cát còn lại là vỏ sò, bùn... được nạo vét từ việc làm 11 bến cảng của đơn vị phục vụ cho Nhà máy thép 60.000 tỷ đồng. Hoàn toàn không có m3 vật chất dư thừa nào ở trên bờ được đưa ra để nhận chìm xuống biển. Đây chỉ là việc di chuyển vật chất từ nơi này sang nơi khác, từ khu vực gần bờ ra vùng biển xa bờ hơn.
Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư Luân Đôn 1996 đều quy định chất nạo vét ở đáy biển là chất được phép đổ xuống biển. Cơ sở của quy định này là chất nạo vét là chất được đưa lên từ đáy biển và việc đưa nó trở lại biển là một việc rất tự nhiên nếu nó không chứa những chất độc hại có khả năng làm môi trường biển thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Việc nhận chìm chất nạo vét xuống biển được luật pháp nhiều nước trên thế giới cho phép và thực hiện rất phổ biến.
Liên quan đến vấn đề này, tỉnh Quảng Ngãi có văn bản 3383/UBND-CNXD thống nhất thỏa thuận lại vị trí nhận chìm ở biển đối với chất nạo vét trong quá trình thi công xây dựng dự án. Địa điểm dự kiến đã được UBND tỉnh lựa chọn nằm phía ngoài khơi vịnh Dung Quất, cách đảo Lý Sơn 28,3km về phía Đông, cách khu vực nạo vét luồng tàu khoảng hơn 6,8km và cách khu nguồn lợi thủy sản tiềm năng vùng biển ven bờ vịnh Dung Quất - phía Tây Bắc 10km.
Đây cũng chính là khu vực mà các đơn vị khác như: Doosan, Nhà máy lọc hóa dầu Bình Sơn… nhận chìm trong quá trình thi công nạo vét làm bến cảng của các đơn vị này. Diện tích khu vực nhận chìm khoảng 1,8km2 , có độ sâu từ -51 đến -55m, độ dốc khoảng 2%. Bên cạnh đó, UBND tỉnh Quảng Ngãi có công văn khẳng định việc nhận chìm ở biển đối với vật chất nạo vét trong quá trình thi công là phương án khả thi nhất hiện nay, đáp ứng được yêu cầu tiến độ triển khai dự án (theo công văn số 4697/UBND-CNXD).
Trên cơ sở đánh giá của các cơ quan khoa học, Công ty Cổ phần thép Hòa Phát Dung Quất cũng như tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, tại vị trí nhận chìm không có hệ sinh thái cần quan tâm đặc biệt như san hô, cỏ biển; tính đa dạng các sinh vật đáy thấp. Phạm vi phát tán lan truyền vật chất xa nhất là 4,62km về phía Tây Bắc và 2,96km về phía Đông Nam, không phát tán rộng ra các vùng xung quanh.
Mặt khác, sự phát tán lan truyền bùn cát chỉ xảy ra tức thời trong thời gian thực hiện nhận chìm, công nghệ, biện pháp nạo vét và nhận chìm đảm bảo tính hiện đại, do công ty nước ngoài có kinh nghiệm thực hiện,… do đó không ảnh hưởng đến Khu Bảo tồn biển Lý Sơn cũng không ảnh hưởng đến khu nguồn lợi thủy sản tiềm năng vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi…
Để nạo vét và nhận chìm số vật chất này, Công ty thép Hòa Phát Dung Quất dùng tàu hút bụng xả đáy tự hành, có công suất từ 7000-35.000m3/chiếc. Sau khi hút vật chất lên khoang chứa của tàu, tàu sẽ di chuyển đến vị trí cần đổ, cửa khoang chứa (nằm dưới thân) sẽ tự động mở ra để xả. Phương pháp này sẽ giảm thiểu tối đa những yếu tố gây ảnh hưởng đến không khí như bụi, tiếng ồn và ít ảnh hưởng đến môi trường nước.
Theo lãnh đạo Công ty Hòa Phát Dung Quất, để làm 11 bến cảng, Công ty phải hút cát, bùn ở khu vực này với tổng khối lượng nạo vét khoảng 19,370 triệu m3; đơn vị đã sử dụng gần 4 triệu m3 để san lấp mặt bằng khu đất của dự án. Do đó, tổng khối lượng mà Công ty Hòa Phát xin nhận chìm là khoảng 15,390 triệu m3.
Được biết, Dự án Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất được UBND tỉnh Quảng Ngãi trao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư vào tháng 2.2017. Dự án này triển khai xây dựng tại vị trí dự án thép trị giá đầu tư 4,5 tỉ USD có tên Guang Lian (Đài Loan -Trung Quốc) chiếm đất rồi bỏ hoang hơn 10 năm nay ở khu kinh tế Dung Quất… với tổng diện tích đất sử dụng gần 373ha, thời gian hoạt động 50 năm. Công suất thiết kế của Nhà máy thép Hòa Phát Dung Quất là 4 triệu tấn/năm, được phân kỳ đầu tư thành 2 giai đoạn với 2 triệu tấn thép/giai đoạn. Tổng vốn đầu tư của dự án khoảng 60.000 tỉ đồng.
Thời gian triển khai xây dựng và hoàn thành đưa vào hoạt động của gian đoạn 1 dự kiến khoảng 24 tháng, kể từ khi bàn giao đất và cấp giấy phép xây dựng. Giai đoạn 2 sẽ triển khai sau khi giai đoạn 1 hoàn thành 18 tháng và đưa vào hoạt động trong thời hạn 24 tháng.
Nguồn tin: Lao động