Mặc dù những tháng đầu năm 2017, sản xuất thép trong nước tăng trưởng mạnh, đạt mức tăng 18,8% so với cùng kỳ và dự báo tăng trưởng cả năm khoảng 12%.
Tuy nhiên, khi cánh cửa hội nhập càng rộng mở, đang đặt ra cho các doanh nghiệp (DN) ngành thép không ít sức ép cạnh tranh. Bởi khi thuế suất nhập khẩu (NK) hàng hóa bằng 0%, thép nước ngoài NK càng có cơ hội tràn vào nội địa, cùng với đó thị trường xuất khẩu (XK) chắc chắn sẽ gặp khó khăn bởi biện pháp phòng vệ thương mại của nhiều quốc gia sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất, kinh doanh của các DN trong nước.
Áp lực cạnh tranh
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), những tháng đầu năm 2017, sản xuất thép trong nước tăng trưởng tốt so với cùng kỳ. Bán hàng thép trong nước cũng tăng trưởng khá. Tuy nhiên, NK thép tăng và áp lực trước những rào cản thương mại tại các thị trường XK khiến ngành thép Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, ước tính trong tháng 4/2017, cả nước NK 1,6 triệu tấn sắt thép các loại, tăng 8,7% và trị giá là 945 triệu USD, tăng 8,2% so với tháng trước. Lượng NK sắt thép các loại trong 4 tháng đầu năm 2017 ước đạt gần 5,8 triệu tấn, giảm 5,9% về lượng nhưng trị giá lại tăng 45,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức 3,3 tỷ USD.
Còn theo báo cáo của VSA, NK một số mặt hàng sắt thép từ đầu năm đến nay vẫn tăng cao so với cùng kỳ, như: Thép tôn mạ màu hơn 84.000 tấn, tăng 40%; thép thanh que hình hơn 141.000 tấn, tăng 113%; thép cuộn cán nguội gần 160.000 tấn, tăng 158%. Ngoài ra, NK ống thép hàn, dây thép, mạ loại khác, thép không gỉ... cũng tăng cao. Đặc biệt, kim ngạch NK các mặt hàng sắt thép từ thị trường Trung Quốc vào Việt Nam vẫn rất lớn.
Cùng với áp lực cạnh tranh gay gắt trước các sản phẩm sắt thép NK, các sản phẩm sắt thép Việt Nam XK cũng đang đứng trước những thách thức đến từ các biện pháp phòng vệ thương mại từ thị trường XK. Bởi nếu như trước đây, thép Việt Nam chủ yếu xuất sang thị trường khối ASEAN thì từ năm 2016, chúng ta đã chuyển hướng xuất sang thị trường Mỹ và hiện lượng thép xuất sang thị trường này đã chiếm tới gần 27% tổng lượng thép XK với mặt hàng chủ yếu là tôn mạ…
Thận trọng trong đầu tư
Để bảo vệ sản xuất trong nước, Việt Nam đã áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại như sử dụng thuế chống bán phá giá (CBPG) đối với các mặt hàng sắt thép NK vào Việt Nam, như: Thép không gỉ cán nguội, thép mạ, thép hình chữ H, phôi thép và thép dài... Điển hình, đối với thép không gỉ cán nguội, việc áp dụng thuế CBPG đã được áp dụng từ cuối năm 2014 đối với các sản phẩm được NK từ Trung Quốc, Malaysia và Indonesia. Đến giữa năm 2015, mức thuế CBPG cho sản phẩm này được gia tăng sau khi rà soát lần thứ nhất và hiện nay Cục Quản lý cạnh tranh cũng đang tiến hành rà soát lần thứ hai.
Mới nhất là cuối tháng 3/2017, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định về việc áp dụng biện pháp CBPG đối với sản phẩm thép mạ (còn gọi là tôn mạ) NK vào Việt Nam, có xuất xứ từ Trung Quốc (bao gồm Hồng Kông) và Hàn Quốc. Ngay khi quyết định áp thuế CBPG với một số mặt hàng thép NK có hiệu lực đã có không ít ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, các chuyên gia khẳng định, việc đưa ra quyết định trên của Bộ Công Thương là chính xác, thận trọng và đây là biện pháp tự vệ thông thường, phản ứng có lợi cho thị trường, cho ngành, cho nền kinh tế và phù hợp chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp dài hạn.
Bên cạnh đó, xu hướng các nước bị áp thuế CBPG đã và đang chuyển hẳn sang đầu tư sản xuất ngay tại Việt Nam. Thời gian qua, nhiều chuyên gia đã cảnh báo về những hệ lụy đối với các dự án thép tại Việt Nam, nhất là những dự án có tác động lớn đến môi trường. Hơn nữa, vì sản xuất thép là lĩnh vực đặc thù, sử dụng nhiều loại nguyên, nhiên liệu, nhất là các hóa chất độc hại có khả năng tác động tiêu cực đến môi trường nếu không đảm bảo các yêu cầu về công nghệ, kỹ thuật. Do đó, bên cạnh việc xem xét đánh giá chung về tình hình cung cầu trong nước, trong khu vực và thế giới; xem xét hiệu quả của dự án về mặt KT - XH thì vấn đề môi trường cũng cần phải được đánh giá hết sức kỹ lưỡng trước khi cấp phép cho những dự án đầu tư sản xuất thép.
Theo các chuyên gia, mặc dù nước ta đang “thừa thép”, nhưng thực tế chỉ thừa các chủng loại thép xây dựng, tôn mạ… thông thường, vẫn phải nhập siêu thép với giá trị hàng tỷ USD để phục vụ sản xuất. Vì thế, chúng ta vẫn phải đầu tư sản xuất thép, nhưng vấn đề là tính toán, cân nhắc đầu tư ở giai đoạn nào, thời điểm nào, quy mô và công nghệ ra sao để kiểm soát môi trường và bảo đảm tính cạnh tranh khi sản phẩm ra thị trường.
Nguồn tin: GD&TĐ