I.Tỷ giá và lãi suất Ngân hàng tuần 39
Tỷ giá: Tỷ giá ngoại tệ ngày 25/9 diễn biến theo xu hướng đồng USD trên thị trường quốc tế tăng tiếp do giới đầu tư tìm đến loại tài sản có độ an toàn cao này, trong bối cảnh chứng khoán bất ổn còn vàng chịu áp lực chốt lời.
Các ngân hàng thương mại giữ tỷ giá ngoại tệ đồng USD phổ biến ở mức 23.100 đồng (mua) và 23.280 đồng (bán).
Vietcombank và BIDV niêm yết tỷ giá ở mức: 23.100 đồng/USD và 23.280 đồng/USD. Vietinbank: 23.108 đồng/USD và 23.288 đồng/USD. ACB: 23.120 đồng/USD và 23.270 đồng/USD
Lãi suất:
Mặc dù Ngân hàng Nhà (NHNN) nước đã hai lần cắt giảm lãi suất chính sách năm nay, hồi tháng 3 và tháng 5, xuống còn 4.5% nhưng nhìn chung lãi suất của Việt Nam vẫn thuộc dạng cao trong khu vực, kể cả so với những nền kinh tế cùng thứ hạng như Philippines, Indonesia hoặc Ấn Độ.
Nhiều cá nhân và tổ chức đã khuyến nghị NHNN tiếp tục giảm lãi suất chính sách thêm nữa trong bối cảnh lãi suất trong nước vẫn cao và nhiều nước vẫn đang tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ và thậm chí là nới lỏng định lượng (ngân hàng trung ương trực tiếp mua trái phiếu Chính phủ) kể từ đầu năm nay.
Trên thực tế, không thể chỉ đơn thuần nhìn vào mức chênh lệch lãi suất với các nền kinh tế để kêu gọi hạ lãi suất ở Việt Nam. Bởi lãi suất có giảm được hay không và bao nhiêu phụ thuộc trước tiên vào mức lạm phát của Việt Nam so với khu vực và thế giới.
Trong khi xu hướng chung khi đại dịch nổ ra là lạm phát có xu hướng sụt giảm mạnh, thậm chí là tụt xuống dưới 0, nhưng ở một số nước như Việt Nam và Ấn Độ lạm phát vẫn neo ở mức đáng kể, trên 3%/năm vào các tháng gần đây.
Có sự liên hệ rõ ràng giữa lạm phát với lãi suất. Những nước có lạm phát càng thấp, thậm chí là âm như Singapore, Malaysia và Thái Lan thì lãi suất của họ cũng rơi xuống mức rất thấp.
Như vậy, có thể thấy tỷ giá cũng là một trong những tham số quan trọng khác để quyết định có cắt giảm lãi suất hay không. Liên hệ với Việt Nam, khó có thể phủ nhận rằng lãi suất được cắt giảm có chừng mực là một yếu tố, bên cạnh sự can thiệp trực tiếp vào tỷ giá (mua vào USD của NHNN), giúp duy trì sự ổn định của tỷ giá USD/VND trong suốt thời gian qua.
Sự ổn định tỷ giá có thể là một chính sách ưu tiên của NHNN trong thời gian qua. Sự ổn định này có thể được nhìn nhận là một biểu hiện thành công trong điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá của NHNN. Trong bối cảnh Mỹ cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ thì NHNN càng có thêm lý do để không nới lỏng thêm quá mức chính sách tiền tệ (cắt giảm thêm lãi suất điều hành) để tỷ giá suy yếu đi, bởi làm thế sẽ giúp khẳng định thêm tính chính đáng của lời cáo buộc của Mỹ.
Trong những tháng tới, liệu NHNN có thể, có nên cắt giảm thêm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế không? Câu trả lời trước hết vẫn phải phụ thuộc vào diễn biến của lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới. Nếu lạm phát tiếp tục có xu hướng dịu đi thì rõ ràng NHNN sẽ có thêm dư địa để cắt giảm lãi suất hơn nữa.
II. Hàng nhập khẩu về trong tuần 39
LOẠI HÀNG | KHỐI LƯỢNG (tấn) |
THÉP TẤM | 6,820.227 |
TÔN NÓNG | 25,364.271 |
III. Bảng tổng hợp giá chào về Việt Nam tuần 39
Loại hàng | Xuất xứ | Giá (USD/tấn) | Thanh toán |
HRC SAE1006 | Đài Loan | 538 | CFR |
HRC SAE1006 | Trung Quốc | 520-525 | CFR |
HRC SS400 | Trung Quốc | 515 | CFR |
Tấm dày Q235/SS400 12-25 mm | Trung Quốc | 527-535 | CFR |
Tấm dày Q235/SS400 12-25 mm | Nga | 520 | CFR |
IV. Bảng giá các mặt hàng cơ bản Việt Nam tuần 39
| | | |
| | 13.000 | Tăng 100 |
| | 13.200 | Giảm 200 |
HRC 2.0mm | | 13.400 |
|