Lần đầu tiên Trung Quốc nhập siêu ở mức kỷ lục kể từ năm 2005
| ||||||
| Jan-June 2009 | Jan-June 2008 | % change | |||
Exports | | | | |||
Semis | 8 | 146 | -94 | |||
Long products | 1,485 | 7,860 | -81 | |||
Flat products | 3,617 | 13,042 | -72 | |||
Tubes | 2,880 | 3,896 | -26 | |||
Total | 7,990 | 24,944 | -68 | |||
Imports | | | | |||
Semis | 2,701 | 105 | +2,474 | |||
Long products | 599 | 699 | -14 | |||
Flat products | 7,045 | 6,910 | +2 | |||
Tubes | 366 | 505 | -28 | |||
Total | 10,710 | 8,219 | +30 |
Xuất khẩu các sản phẩm thép cán của Trung Quốc (bán thành phẩm, các sản phẩm thép thanh, thép dài và thép ống) trong tháng 6 chỉ đạt 1.2 triệu tấn, trong nửa đầu 2009 là 8 triệu tấn, giảm 68% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu trong tháng 6 giảm 2 triệu tấn, nhập khẩu trong nửa đầu 2009 đạt 10.7 triệu tấn, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện tại, Trung Quốc đang đang nhập siêu đối với các sản phẩm thép cán trong mỗi tháng kể từ tháng 2/2009, mức nhập siêu trong 6 tháng là 2.7 triệu tấn, tăng lên mức 19.4 triệu tấn so với mức kỷ lục 16.7 triệu tấn so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý 2/2009, Trung Quốc xuất khẩu 3.5 triệu tấn thép cán trong khi nhập khẩu 6.6 triệu tấn, đạt mức kỷ lục lần đầu tiên nhập siêu đối với các sản phẩm thép cán kể từ quý 4/2005 – 1 chuyên gia phân tích của Cục thống kê sắt thép cho biết.
Trong số 66% giảm hàng xuất khẩu từ tháng 1-6, những khu vực mà Trung Quốc giảm giao hàng xuất khẩu bao gồm: châu Âu giảm 81%, Đông Á giảm 68%, Nam Mỹ giảm 59%, Bắc Mỹ giảm 51% và châu Phi giảm 10%. Hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang CIS tăng 29%, sang thị trường châu Á giảm 75%, sang Nam Hàn Quốc giảm 73%, sang Việt Nam giảm 85% và sang Ấn Độ giảm 66%.
Từ tháng 1-6/2009, Trung Quốc nhập khẩu từ châu Á 6.7 triệu tấn, giảm 7% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ Nhật Bản giảm 60%, trong khi nhập khẩu từ Nam Hàn Quốc tăng 23%, nhập khẩu từ 27 quốc gia châu Âu giảm 36%, và nhập khẩu từ các khu vực khác tăng phản ánh sức mua bán thành phẩm của Trung Quốc. Tổng lượng hàng nhập khẩu từ CIS là 2.5 triệu tấn, so với 0.2 triệu tấn trong cùng kỳ 2008.
JFE nâng sản lượng lên 12% do nhu cầu phục hồi
JFE Steel, nhà máy lớn thứ 2 ở Nhật Bản, dự kiến sẽ tăng sản xuất thép nguyên liệu không chính thức lên 12%, đạt 13 triệu tấn tỏng nửa cuối năm tài chính (10/2008-3/2009) so với 11.6 triệu tấn trong nửa đầu năm. JFE Steel đã sản xuất 5.12 triệu tấn trong tháng 4-6 và dự báo sản lượng sẽ đạt 6.5 triệu tấn trong quý 3.
Theo báo cáo ngày 28/7, công ty dự báo sẽ tăng tỉ lệ xuất khẩu đối với các sản phẩm lên 48% trong quý 3 so với 42.3% trong quý 2 và 41.6% trong năm tài chính vừa rồi. Điều này là do công ty đang cải thiện và mở rộng doanh số bán ở thị trường nước ngoài.
Trong khi đó, Nippon Steel, nhà máy thép lớn nhất Nhật Bản sẽ đưa ra báo cáo tài chính và báo cáo sản xuất hàng quý vào ngày 29/7.
Bagang, Trung Quốc bắt đầu sản xuất ở nhà máy thép dây xây dựng mới
Baosteel’s Bayi Iron & Steel (Bagang) đã khánh thành 1 nhà máy thép dây xây dựng mới với công suất 600,000 tấn/năm, đây là công ty thép lớn nhất ở khu tự trị Tân Cương, tây bắc Trung Quốc.
Nhà máy mới có thể sản xuất thép có đường kính 6.5mm-16mm, cùng 1 loạt sản phẩm như thép xây dựng, thép hợp kim thấp, thép dây xây dựng hàn và thép cán nguội.
Bagang cũng có 1 nhà máy thép dây xây dựng khác với cùng công suất 600,000t/năm.
Trong khi đó, Bagang cũng đang xây dựng 1 nhà máy thép thanh thứ 3, cũng có công suất 600,000t/năm và dự kiến sẽ hoạt động vào năm 2010. Công suất thép dài của Bagang sẽ đạt khoảng 3 triệu tấn/năm khi nhà máy đi vào hoạt động.
Công ty có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất thép dài và có thị phần cao trên thị trường thép xây dựng ở tây bắc Trung Quốc. Mặc dù nhu cầu thép dài nội địa mạnh nhưng Bagang vẫn dự đoán sẽ lỗ RMB 182 triệu (US$27 triệu) trong nửa đầu 2009 vì giá các sản phẩm thép thanh vẫn không thể bù đắp chi phí. Bagang đang hoạt động nhà máy thép lá cán nóng công suất 4 triệu tấn/năm và gần đây đã đi vào hoạt động nhà máy thép tấm công suất 650,000 tấn.
Tung Ho bắt đầu hoạt động nhà máy thép thanh xây dựng, phôi thép mới trong năm 2010
Nhà sản xuất thép dài Tung Ho Steel Enterprise Corp, Đài Loan, sẽ tăng công suất sản xuất phôi thép lên 500,000 t/năm đạt 2.1 triệu tấn/năm sau khi hoạt động nhà máy mới ở Guanyin, Taoyuan, tây bắc Đài Loan vào tháng 3/2010.
Nhà máy mới sẽ sản xuất 1 triệu tấn phôi thép bằng lò luyện điện phân và công suất 800,000 t/năm đối với thép thanh xây dựng và các sản phẩm thép dài khác.
Nhà máy Bade, cách Guanyin 20km về phía đông nam, hiện tại có công suất sản xuất khoảng 500,000 tấn phôi thép và 600,000 thép thanh xây dựng mỗi năm.
Tung Ho có 2 cơ sở sản xuất ở Đài Loan: 1 cơ sở đặt tại Sihu, Miaoli - tây Đài Loan có công suất 1.1 triệu tấn thép nóng chảy/năm và công suất 960,000 tấn thép tấm và dầm thép H; 1 cơ sở khác ở Cao Hùng, nam Đài Loan có công suất sản xuất 330,000 tấn thép thanh xây dựng và 400,000 tấn thép hình mỗi năm.
Hàng tồn kho cuối tháng 6 giảm ở cảng Tokyo và Osaka
HRC,CRC và thép tấm tồn kho ở các cảng Nhật Bản như Tokyo và Osaka trong cuối tháng 6 giảm 15.5% so với cuối tháng 5 và giảm 28.8% so với cùng kỳ năm trước – mức thấp nhất kỷ lục trong 5 năm qua.
Giá nhập khẩu tăng lên bằng mức hay cao hơn với giá nội địa của các nhà sản xuất Nhật Bản. Như báo cáo đã đăng gần đây của SBB, Anshan Iron & Steel, Trung Quốc đã nâng giá xuất khẩu HRC sang Nhật Bản lên $80/t đối với đợt giao hàng tháng 9. China Steel Corp (CSC), Đài Loan cũng tăng giá xuất khẩu HRC sang Nhật Bản thêm ¥5,000/t ($52.6/t) và Posco, lên ¥4,000-5,000/t.
| ||||||
| end-June 09 | end-May 09 | end-June 08 | |||
Osaka Plate | 11,000 | 12,000 | 9,000 | |||
Osaka HRC | 25,000 | 32,000 | 27,000 | |||
Osaka CRC | 42,000 | 44,000 | 81,000 | |||
Tokyo Plate | 10,000 | 10,000 | 10,000 | |||
Tokyo HRC | 53,000 | 66,000 | 69,000 | |||
Tokyo CRC | 17,000 | 23,000 | 26,000 | |||
Total | 158,000 | 187,000 | 222,000 |