Trung Quốc
1. Quặng sắt: Giá thép cao hơn thúc đẩy tâm lý
Giá quặng sắt vận chuyển bằng đường biển tăng. Chỉ số ICX 62% đạt 100,80 USD/dmt cfr Thanh Đảo (+1,50 USD/dmt), chỉ số 65% đạt 113,55 USD/dmt (+1,55 USD/dmt).
Giá phôi thép xuất xưởng Đường Sơn tăng 30 NDT/tấn lên 2.970 NDT/tấn.
Tâm lý thị trường được cải thiện nhờ tín hiệu từ Tổng thống Trump về việc giảm thuế quan đối với hàng hóa Trung Quốc.
BHP công bố mức chênh lệch giá giảm hàng tháng cho các sản phẩm chính trong hợp đồng tháng 5, với hầu hết các loại quặng đều có mức chiết khấu lớn hơn so với tháng 4.
Giao dịch vận chuyển bằng đường biển diễn ra hạn chế, với một giao dịch quặng cục PBL được ghi nhận.
Thị trường thứ cấp chưa sôi động do lo ngại về tính bền vững của đợt tăng giá.
Giá quặng mịn tại cảng Thanh Đảo (PCX 62%) tăng 4 NDT/wmt lên 789 NDT/wmt, tương đương 101,25 USD/dmt cfr Thanh Đảo.
Hợp đồng tương lai quặng sắt tháng 9 trên DCE tăng 2,11% lên 727,50 NDT/tấn.
Giao dịch tại cảng sôi động hơn do tâm lý cải thiện và các nhà máy thép tích trữ hàng.
2. Thép dẹt (Flat Steel): Tâm lý tăng do hy vọng thuế quan giảm
Giá thép dẹt tăng do hy vọng căng thẳng thương mại Mỹ-Trung dịu bớt sau phát biểu của Tổng thống Trump.
Giá HRC xuất kho Thượng Hải tăng 50 NDT/tấn lên 3.270 NDT/tấn. Hợp đồng tương lai HRC tháng 10 tăng 1,41% lên 3.233 NDT/tấn.
Chỉ số HRC fob Trung Quốc tăng 5 USD/tấn lên 453 USD/tấn.
Hoạt động giao dịch sôi động hơn do giá tương lai tăng và tâm lý cải thiện, với người mua bắt đầu tái nhập kho trước kỳ nghỉ Lễ Lao động.
Các công ty thương mại Trung Quốc nâng giá chào bán HRC mác Q235. Các nhà máy lớn vẫn giữ giá chào HRC mác SS400 ở mức cao hơn.
Người mua từ Hàn Quốc và Nam Mỹ thể hiện sự quan tâm mua HRC mác SS400 nhưng chưa có giao dịch nào được chốt. Người mua Việt Nam vẫn thận trọng.
3. Thép dài (Long Steel): Tâm lý thị trường phục hồi
Giá thép dài nội địa Trung Quốc tăng do tâm lý thị trường ấm lên sau tín hiệu của Tổng thống Trump về việc giảm thuế quan.
Giá thép cây giao ngay xuất kho Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn lên 3.150 NDT/tấn. Hợp đồng tương lai thép cây tháng 10 tăng 1,46% lên 3.137 NDT/tấn.
Các nhà máy miền đông Trung Quốc tăng giá xuất xưởng thép cây.
Nguồn cung thép cây ở Giang Tô có phần thắt chặt do một nhà máy có kế hoạch đóng cửa dây chuyền sản xuất.
Chỉ số thép cây fob Trung Quốc giảm 3 USD/tấn xuống 443 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết.
Giá xuất khẩu thép cuộn trơn của Trung Quốc ổn định ở mức 462 USD/tấn fob.
Giá phôi thép xuất xưởng Đường Sơn tăng 50 NDT/tấn lên 2.990 NDT/tấn.
4. Than cốc luyện kim: Giá tăng sau giao dịch PMV
Giá than cốc luyện kim cứng cao cấp vận chuyển bằng đường biển tăng sau một giao dịch than cốc bay hơi trung bình cao cấp (PMV).
Giá than cốc PLV của Úc tăng 2,55 USD/tấn lên 189,80 USD/tấn fob.
Thị trường có ý kiến trái chiều về tính bền vững của mức giá hiện tại.
Nhu cầu từ Ấn Độ vẫn tích cực.
Giá than cốc PLV sang Trung Quốc giảm nhẹ 10 cent/tấn xuống 170,90 USD/tấn cfr.
Thị trường giấy tăng do giá thép mạnh lên.
5. Phế: Duy trì dao động trong phạm vi hẹp
Thị trường phế liệu nội địa Trung Quốc duy trì dao động trong phạm vi hẹp trong tuần qua.
Hoạt động tái nhập kho của các nhà máy trước kỳ nghỉ Lễ Lao động (bắt đầu từ 1/5) tiếp tục hỗ trợ giá. Tâm lý thị trường cải thiện nhẹ vào thứ Tư sau tín hiệu từ Mỹ về khả năng nới lỏng căng thẳng thương mại. Tuy nhiên, một số người tham gia vẫn thận trọng và chờ đợi các biện pháp kích thích kinh tế tiềm năng từ chính phủ trong cuộc họp Bộ Chính trị cuối tháng.
Mức trung bình đánh giá hàng tuần cho phế luyện kim nặng (>6mm) giao đến các nhà máy vùng duyên hải phía bắc nhích tăng 3 NDT/tấn lên 2.355 NDT/tấn. Giá trung bình tại các nhà máy duyên hải phía đông ổn định ở mức 2.131 NDT/tấn. Giá trung bình tại các nhà máy duyên hải phía nam ổn định ở mức 2.190 NDT/tấn.
Nhật Bản
Giá xuất khẩu phế liệu H2 fob Nhật Bản: Giữ nguyên ở mức 41.900 Yên/tấn (298 USD/tấn). Thị trường xuất khẩu ổn định nhưng hoạt động giao dịch hạn chế do biến động tỷ giá hối đoái. Đồng Yên tăng giá nhẹ so với USD, gây lo ngại cho khả năng cạnh tranh của các nhà xuất khẩu.
Người mua nước ngoài ít quan tâm đến giao dịch mới, chờ giá giảm thêm hoặc do thị trường thép nội địa yếu. Các nhà máy Việt Nam vẫn có nhu cầu mua phế liệu nhập khẩu nhưng giá mục tiêu thấp hơn giá chào bán. Người mua Đài Loan ưu tiên phế liệu container. Các công ty thương mại Nhật Bản chuyển hướng sang thị trường Nam Á nhưng người mua ở đây cũng do dự.
Các nhà xuất khẩu Nhật Bản giảm giá tại bến cảng do nhu cầu xuất khẩu thấp. Giá thu mua phế liệu H2 tại Vịnh Tokyo giảm 500 Yên/tấn. Giá phế liệu nội địa Nhật Bản có thể chịu thêm áp lực giảm.
Đài Loan
Giá phế liệu container nhập khẩu vào Đài Loan (HMS 1/2 80:20 cfr): Tiếp tục giảm thêm 5 USD/tấn so với thứ Ba xuống 290 USD/tấn. Mức trung bình từ đầu tháng Tư đến nay là 304,88 USD/tấn cfr.
Một giao dịch đã được chốt ở mức 290 USD/tấn vào ngày 23 tháng 4, khiến các giá thầu khác bị rút hoặc giảm xuống 280-285 USD/tấn. Nguyên nhân chính là nhu cầu yếu từ người mua và các nhà máy thép do tồn kho phế liệu cao hoặc doanh số bán thép cây kém.
Hầu hết người mua đang đứng ngoài cuộc, chờ đợi giá giảm thêm, theo xu hướng của thị trường phế liệu Thổ Nhĩ Kỳ. Giá phế liệu HMS 1/2 80:20 cfr Thổ Nhĩ Kỳ: Ở mức 331,50 USD/tấn vào ngày 22 tháng 4, giảm mạnh 51 USD/tấn so với đầu tháng.
Phế liệu H1/H2 50:50 có xuất xứ từ Nhật Bản: Không có chào bán nào được ghi nhận do chênh lệch giá lớn với phế liệu Mỹ khiến việc chào bán cho Đài Loan không có ý nghĩa.
Thị trường phái sinh (LME Steel Scrap): Chênh lệch giá tháng 4-tháng 5 lùi lại 5 USD/tấn vào thời điểm thị trường châu Á đóng cửa ngày 23 tháng 4.
Châu Âu
Thép dài: Giá thép cây và cuộn trơn châu Âu chịu thêm áp lực từ các ưu đãi nhập khẩu cạnh tranh trong tuần này, với sự suy yếu của đồng đô la Mỹ gây sức ép lên giá trị của các chào giá nhập khẩu theo điều khoản tiền tệ khu vực, trong khi nhu cầu chậm khiến biên lợi nhuận của người dùng cuối mỏng. Nhu cầu vào cuối tháng 4 thường chậm sau kỳ nghỉ lễ Phục sinh, vì vậy các nhà máy buộc phải cân nhắc việc giảm giá để bán được hàng.
Giá thép cây tại Ý giảm nhẹ 2,50 euro/tấn xuống còn 585 euro/tấn tại nhà máy, do sự trầm lắng theo mùa trong một thị trường vốn đã ảm đạm đã thúc đẩy các nhà máy hạ giá bán. Cuộn trơn dạng kéo của Ý ổn định ở mức 640 euro/tấn giao tới người mua do hoạt động gia dịch thưa thớt.
Giá thép cuộn Tây Bắc Âu được cho là ổn định ở mức 630 euro/tấn giao tới người mua, với cuộn trơn là 640 euro/tấn giao tới khách hàng, nhưng các nhà máy được cho là có khả năng sẽ đồng ý giảm giá.
HDG: Giá cuộn mạ kẽm nhúng nóng (HDG) của châu Âu giảm nhẹ trong tuần này, vì đồng đô la Mỹ yếu hơn khiến giá chào nhập khẩu hấp dẫn hơn, mặc dù nhu cầu vẫn ở mức thấp.
Giá nhập khẩu HDG giảm 10 euro/tấn xuống còn 660 euro/tấn cif Tây Ban Nha, sau khi giảm 22,50 euro/tấn vào tuần trước. Giá HDG Tây Bắc Âu giảm 5 euro/tấn xuống còn 740 euro/tấn, trong khi giá của Ý giảm nhẹ 2,50 euro/tấn xuống còn 732,50 euro/tấn.
Các chào giá của Việt Nam được đưa ra ở mức khoảng 750-760 đô la/tấn (660-669 euro/tấn) cif Tây Ban Nha/Ý cho loại Z140 0,57, nhưng người mua cho biết họ có thể mua ở mức giá thấp hơn.
HRC: Thanh khoản vẫn rất thấp trên thị trường cuộn cán nóng (HRC) châu Âu ngày 23/4, với nhu cầu yếu và sự không chắc chắn lớn hạn chế hoạt động.
HRC Tây Bắc Âu không đổi ở mức 629,50 euro/tấn, sau khi giảm mạnh vào hôm thứ Ba do các giao dịch có giá thấp hơn ở mức khoảng 620 euro/tấn xuất xưởng cho hàng giao vào tháng 6. HRC của Ý giảm nhẹ 0,50 euro/tấn xuống còn 617 euro/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư.
Thổ Nhĩ Kỳ
Giá phế: Giá phế sắt hàng rời nhập khẩu từ các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm trở lại sau một loạt các đợt bán hàng, đạt mức thấp nhất trong gần ba năm, nhưng một số người nhận định rằng giá có thể đang chạm đáy.
Giá phế HMS 1/2 80:20 Thổ Nhĩ Kỳ giảm thêm 8,10 đô la/tấn xuống còn 323,40 đô la/tấn vào ngày 23 tháng 4.
Trong tuần qua, khoảng 40.000 tấn thép cây đã được bán tới Nam Âu, với giá 540-560 đô la/tấn fob, trong khi giá trong khu vực là 532,50 đô la/tấn và doanh số bán thấp, điều này cho thấy rõ ràng khả năng hạn chế của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong việc mua phế liệu ở bất kỳ mức nào cao hơn mức hiện tại, dựa trên chi phí sản xuất và mức khối lượng bán sản phẩm gần đúng của họ.
Trên thị trường giao chặng đường biển ngắn, không có hoạt động nào báo hiệu bất kỳ thay đổi nào trong tâm lý hiện tại với giá phế HMS 1/2 80:20 cfr Thổ Nhĩ Kỳ (chặng đường biển ngắn) giữ nguyên ở mức 320 đô la/tấn hôm thứ Tư.