Thị trường thép thế giới
Giá thép tròn xây dựng tại Ấn Độ nhích nhẹ lên trong tháng qua. Trong khi hầu hết các nhà sản xuất điều chỉnh giá tăng 300-400 Rs/tấn do được hỗ trợ bởi lực mua, thì một số khác cho rằng giá vẫn duy trì không đổi.
Các nhà sản xuất hiện đang bán thép tròn mềm 16mm tại mức 34.000-35.500 Rs/tấn (754-788 USD/tấn) xuất xưởng, chưa bao gồm thuế thiêu thụ đặc biệt 10,3% và VAT.
Lực mua đã mạnh lên kể từ đầu tháng 05 nhằm tái bổ sung nguồn dự trữ, qua đó khuyến khích các nhà sản xuất đẩy giá tăng lên nhằm cải thiện lợi nhuận biên.
Tại Đài Loan, nhà cán lại Chung Hung Steel Co đã điều chỉnh giá HRC và CRC nội địa giảm 1.600 Đài tệ/tấn (56 USD/tấn) đối với các hợp đồng giao tháng 06 nhằm phù hợp với xu hướng đi xuống của thị trường toàn cầu. Chung Hung cũng đang nỗ lực phục hồi lại mức sản xuất cũng như doanh số bán sau khi trượt giảm 10% vào tháng 05.
Sau điều chỉnh, giá HRC tháng 06 của nhà sản xuất này là 21.400 Đài tệ/tấn (746 USD/tấn) và 740 USD/tấn fob Đài Loan, một quan chức cấp cao của công ty này cho hay. Tuy ông chưa thể khẳng định ngay về giá CRC mới của công ty nhưng theo một nguồn tin trong nước cho biết giá CRC nội địa của Chung Hung ở mức 25.000 Đài tệ/tấn (872 USD/tấn).
Tại Việt Nam, thị trường phôi thép vẫn nằm im bất động. Sự trầm lắng là do tiêu thụ xuống thấp và thêm vào đó là ảnh hưởng từ các biện pháp thắt chặt tính dụng của chính phủ,” một nhà sản xuất trong nước nói. Giá nội địa hiện vẫn ổn định ở mức 14,2-14,5 triệu VND/tấn, đã bao gồm phí vận chuyển và VAT.
Trong cuộc bán đấu giá phôi thanh của Vina Kyoei Steel được tổ chức vào tuần trước, nhà cán lại Việt Nam đã mua khoảng 20.000 tấn gồm SS400 và SD295 từ Nhật với giá khoảng 660 USD/tấn cfr Hồ Chí Minh và phôi CT5 từ một nhà sản xuất nội địa với giá 14,1 triệu VND (680 USD/tấn). các mức giá thấp này cho thấy thị trường vẫn chưa sôi động trở lại.
Tại Mỹ, sau khi Nucor thông báo tăng giá bất thường đối với các giao dịch thép tấm áp dụng trong vòng 2 tháng thay vì một tháng, giá thép tấm giao ngay của Mỹ vẫn duy trì ổn định.
Thép tấm A36 trong tuần hiện giao dịch với giá 1,080 – 1,100 USD/tấn, mức giá phổ biến từ hồi tháng 5.
Trong khi các sản phẩm thép công nghiệp khác theo báo giá tham khảo của TSI từ nhà máy Midwest, trong đó HRC vẫn không có gì thay đổi, giá vẫn ở mức 784 USD/tấn short (864 USD/tấn) fob, còn CRC giảm 6 USD/tấn so với tuần trước.
Tại châu Âu, khu vực bắc Âu, giá HRC nhích nhẹ so với tuần trước, còn HDG có giá tham khảo xuất xưởng giảm xuống còn 703 EUR/tấn (993 USD/tấn). Còn nam Âu, giá HRC cũng giảm nhẹ 1 EUR/tấn so với tuần trước nhưng CRC vẫn ở mức không đổi 633 EUR/tấn (894 USD/tấn).
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, giá thép cây nội địa tiếp tục leo thang trong tuần này, đây là lần thứ 5 trong 10 ngày giá thép cây được điều chỉnh tăng. Hiện giá đã tiến sát mức 1.485-1.490 TL/tấn (931-934 USD/tấn), bao gồm 18% VAT, từ mức 1.460 TL/tấn (915 USD/tấn) vào đầu tuần.
Kardemir cũng đã mở đơn đặt mua mới với giá cao hơn, ở mức 1.259 TL/tấn (789 USD/tấn), chưa bao gồm VAT, từ mức giá chào bán hôm thứ Sáu tuần trước là 1.217 TL/tấn (763 USD/tấn). Giá gang thỏi làm thép cũng đã tăng thêm 15 USD/tấn lên 560-570 USD/tấn.
Còn về thép cuộn mạ màu (PPGI) nước này cũng không thay đổi nhiều kể từ đầu tháng 05, nhưng hầu hết các nhà sản xuất đang nhắm đến việc điều chỉnh giá đầu tháng 06 tăng 10-20 USD/tấn.
Hiện tại, giá PPGI nội địa dày 0.5 mm mã màu 9002 được bán ở mức 1.070-1.280 USD/tấn, không có gì thay đổi so với hồi cuối tháng 04. Nhu cầu thép cán dẹt tại Thổ Nhĩ Kỳ tương đối thấp và PPGI cũng không ngoại lệ. Các nhà tham gia thị trường không thể dự đoán khi nào nhu cầu sẽ cải thiện.
Tại Italia, phế HMS hiện đang được giao dịch với giá 280-300 EUR/tấn (402-431 USD/tấn) xuất xưởng, còn phế vụn (E40) có giá xuất xưởng là 340-350 EUR/tấn và E8 có giá 350-360 EUR/tấn. Giá gang thỏi vẫn ổn định ở mức 550 USD/tấn cif kể từ 02 tháng qua.
Khả năng giá phế trong vài tuần tới sẽ được điều chỉnh tăng 10 EUR/tấn nhưng gang thỏi thì ổn định. “Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã quay lại thị trường, hơn nữa giá phế liệu Italia cũng tăng lên theo xu hướng giá quốc tế,” một thương nhân nói.
Thị trường Trung Quốc
Trong hai tuần gần đây, giá bán lẻ thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng (HDG) tại thị trường miền nam Trung Quốc duy trì ổn định, tuy nhiên vài thương nhân đang hạ giá nhằm cải thiện dòng tiền mặt.
Hiện HDG 1,0mm từ nhà sản xuất Anshan Iron & Steel tại thị trường Quảng Châu và Lecong có giá 6.000 NDT/tấn (922 USD/tấn), gồm 17% VAT, không đổi kể từ giữa tháng 05, thậm chí giá thấp hơn đôi chút 5.850 NDT/tấn (899 USD/tấn), gồm VAT vì họ đang nỗ lực duy trì đủ dòng tiền mặt. Tồn HDG trên thị trường bị thắt chặt kéo theo giá không sớm thì muộn cũng hướng lên, dù bước vào giai đoạn mùa nhu cầu thấp tháng 06 tới tháng 08.
Trong tuần này, nhà sản xuất Baosteel thông báo hạ giá CRC tiêu chuẩn thương phẩm tháng 07 khoảng 100 NDT/tấn (15 USD/tấn), và CRC tiêu chuẩn dập sâu khoảng 500 NDT/tấn. Các nhà kinh doanh không tỏ ra ngạc nhiên về việc giảm giá tháng 07 vì khoảng thời gian này các nhà sản xuất ô tô và điện từ ở nước này thường thấp hơn so với những thời điểm khác.
Tính cho tới thời điểm này, giá thép tấm tại thị trường nội địa Trung Quốc vẫn giữ ổn định nhờ vào lực cầu khả quan. Tuy nhiên, thương nhân tỏ vẻ thận trọng về bối cảnh thị trường tháng này do lực mua từ người dùng cuối cùng dự báo trong vài tháng tới hướng xuống vì thiếu hụt nguồn điện, thêm vào đó thị trường lại sắp bước vào mùa nhu cầu thấp.
Hiện thép tấm Q235 dày 14-20mm được chào bán phổ biến tại thị trường Thượng Hải với giá 4.950-4.990 NDT/tấn (763-770 USD/tấn), gồm 17% VAT, trong khi tại Lecong lại có giá cao hơn chút ít 5.130-5.150 NDT/tấn, gồm VAT. Hai mức giá trên không đổi so với đầu tháng 05.
Tồn thép cây tiếp tục vơi dần trên thị trường do được hỗ trợ bởi lực cầu từ dự án xây nhà thương mại và xã hội cũng như tái cơ cấu cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, lực mua còn khá chậm so với tuần trước.
Hiện thép cây HRB335 dày 16-25mm nguồn từ nhà sản xuất Hebei Iron & Steel (Hegang) được chào bán với giá 4.980 NDT/tấn (769 USD/tấn), gồm 17% VAT, tăng 20 NDT/tấn trong tuần qua.
Tính đến cuối tháng 05, giá quặng tinh tại tỉnh Hà Bắc miền bắc Trung Quốc giảm 60 NDT/tấn (10 USD/tấn) so với đầu tháng do nhu cầu từ các nhà sản xuất thép suy yếu. Sự không chắc chắn về bối cảnh kinh tế vĩ mô Trung Quốc cũng góp phần lèo lái giá hướng xuống.
Hôm 31/05, quặng Fe 66% có giá giao dịch trên thị trường dao động quanh 1.300-1.350 NDT/tấn khô, gồm 17% VAT, so với mức giá đầu tháng 05 là 1.350-1.400 NDT/tấn khô tương đương 1.210-1.270 NDT/tấn ướt, giảm 5%.