Thị trường thép Trung Quốc
Bước sang tháng 06, thị trường thép nội địa Trung Quốc đi xuống do lực mua ít ỏi, cộng với chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ.
Tuần trước, giá thép nội địa biến động với biên độ nhẹ, HRC, CRC, và thép tấm cỡ vừa lần lượt rớt 0,1%, 0,2% và 0,4% trong khi, giá thanh vằn, cuộn trơn tăng lần lượt 0,2% và 0,1%. Và tại thị trường tương lai, giá thanh vằn rớt 0,3%, còn cuộn trơn nhích 0,2%.
Thị trường nhập khẩu nickle: được biết thị trường nhập khẩu quặng nickle và quặng tinh của Trung Quốc trong tháng 05 còn ở mức khá cao, nhưng được dự báo chậm lại trong những tháng tới do nhu cầu cũng như giá nickle hướng xuống.
Trong tháng 05, Trung Quốc nhập 4,19 triệu tấn nguyên liệu thô, tăng 70% so với tháng trước, và hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 05 tháng đầu năm, tổng lượng nhập khẩu Nickel đạt 12,27 triệu tấn, tăng 62% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhập khẩu hợp kim và kim loại Nickel trong tháng 05 đạt 18.735 tấn, tăng 75% so với cùng kỳ năm ngoái, và tăng 2% so với tháng trước. Tổng lượng nhập khẩu trong 05 tháng đầu năm đạt 85.421 tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Đà tăng mạnh này là do giá nickle nội địa cao hơn nhiều so với giá nước ngoài.
Thị trường thép tấm: kể từ đầu tuần này, giá thép tấm nội địa Trung Quốc bắt đầu đi xuống do các nhà sản xuất hạ giá chào bán, cộng với tin đồn nâng lãi suất của chính phủ Bắc Kinh diễn ra vào tuần tới.
Tại Thượng Hải, giá chào bán thép tấm Q235 dày 14-20mm rớt xuống còn 4.850-4.900 NDT/tấn (750-758 USD/tấn), gồm 17% VAT, trong khi tại thị trường Lecong có giá cao hơn 5.050-5.100 NDT/tấn, gồm VAT. Cả hai mức giá trên trượt gần 100 NDT/tấn so với tuần trước.
Trước áp lực thị trường suy yếu, thương nhân quyết định hạ giá giao dịch nhằm đẩy mạnh doanh số bán kiếm lời.
Châu Âu
Gần đây, giá thép ống hàn S235 tại khu vực Nam Âu vẫn ổn định ở mức 690-710 EUR/tấn (996-1.025 USD/tấn) xuất xưởng do xu hướng giá chung của thép cuộn và nhu cầu tiếp tục suy yếu. Các nhà sản xuất Tây Ban Nha cho biết họ đang bán loại thép này với giá xuất xưởng là 690-710 EUR/tấn, còn giá bán của các nhà sản xuất Italia thì ở khoảng 700-710 EUR/tấn, Hy Lạp ở khoảng 620-630 EUR/tấn xuất xưởng và Thổ Nhĩ Kỳ đang bán thép ống hàn S235 với giá thấp hơn khoảng 40-50 EUR/tấn.
CIS
Tại Nga, giá cơ bản đối với HRC 2mm trong tháng 06 vẫn không cải thiện và duy trì ở khoảng 22.150 roubles/tấn (793 USD/tấn) xuất xưởng, chưa bao gồm VAT, còn giá CRC là 23.830-27.300 roubles/tấn. Thép tấm dày 12mm có giá khoảng 22.300 roubles/tấn. Nhu cầu từ các ngành sản xuất vẫn ổn định nhưng từ ngành xây dựng chưa có dấu hiệu phục hồi.Giá thép tấm S235 nội địa, chủ yếu là từ các nhà cán lại Italia, trong những tháng gần đây giảm đáng kể xuống còn 590-620 EUR/tấn (851-895 USD/tấn) xuất xưởng.
Châu Á
Đông Nam Á:
Thị trường nhập khẩu phế ở Đông Nam Á hiện khá ổn định với giá lô phế lớn 80:20 HMS 1&2 ở ngưỡng 495-505 USD/tấn cfr, và giá phế vụn ổn định mức 500-510 USD/tấn cfr.
Tuần này, Hyundai Steel đặt mua phế Shindachi Nhật Bản với giá 41.500 Yen/tấn (517 USD/tấn) fob, phế HS loại tấm và kết cấu chốt 39.000 Yen/tấn fob còn giá phế H2 thấp hơn chỉ 35.000 Yen/tấn fob.
Phế 80:20 tháo dỡ từ container được nhập vào Việt Nam trong đó có 2.000 tấn từ CIS với giá 474 USD/tấn cfr, 2.000 tấn từ Châu Âu ỡ ngưỡng 472-473 USD/tấn cfr, 1.500 tấn từ Trung Đông và 1.500 tấn từ miền trung nước Mỹ đồng giá 465 USD/tấn.
Ấn Độ:
Trong vài tuần tới, nhà sản xuất phôi thép Narbheram Power & Steel dự định bắt đầu nâng công suất hoạt động nhằm tăng sản lượng thép ở nhà máy Dhenkanal tiểu bang Odisha, miền đông Ấn Độ tăng lên gấp 5 lần.Narbheram lên kế hoạch tăng sản lượng phôi lên mức 800.000 tấn/năm so với con số hiện tại 150.000 tấn/năm. Công ty cũng dự định tăng sản lượng quặng sắt xốp tại nhà máy lên 550.000 tấn/năm từ 150.000 tấn/năm.
Tại thị trường HRC, các nhà xuất khẩu Ấn Độ đang chào bán HRC 3mm tiêu chuẩn thương phẩm SS400 có chứa boron xuất xứ trung Quốc với giá 715-720 USD/tấn cfr. Lực mua HRC SAE 1006 2mm từ Nga khá yếu, loại thép này đang được chào bán với giá 730-740 USD/tấn cfr. Hầu hết các nhà sản xuất tỏ ra không mấy lạc quan về triển vọng thị trường trong vài tuần tới do tỷ lệ lãi suất cao đang đe dọa đến sự phát triển ngành công nghiệp trong ngắn hạn.
Nhật Bản:
Tokyo Steel Manufacturing quyết định nâng giá thu mua phế thêm 500-1.000 Yên/tấn (6-12.5 USD/tấn) áp dụng cho các giao hàng tới các xưởng máy ở phía tây Nhật Bản kể từ ngày 23/06.Giá thu mua phế H2 của Tokyo Steel tại Okayama, Kyushu và Takamatsu được tăng thêm 1.000 Yên/tấn lên mức lần lượt là 37.000 Yên/tấn (463 USD/tấn), 37.500 Yên/tấn và 35.000 Yên/tấn. Giá thu mua tại Tahara tăng 500 Yên/tấn lên 37.000 Yên/tấn, vận chuyển bằng đường biển, còn nếu vận chuyển bằng đường bộ thì có giá 37.500 Yên/tấn. Giá thu mua tại Utsunomiya vẫn duy trì không đổi mức 35.000 Yên/tấn kể từ 28/05.
Trung Đông
Ả Rập Saudi:
Giá phế nội địa Ả Rập Saudi duy trì không đổi kể từ đầu tháng 06 do nhu cầu thép suy yếu bởi thời tiết oi bức, làm chậm tiến độ xây dựng.
Phế ferrous nội địa hiện đang được bán cho các nhà sản xuất ở khu vực phía đông và phía tây lần lượt với giá 990 SAR/tấn (264 USD/tấn) và 1.060 SAR /tấn (283USD/tấn).
U.A.E:
Nguồn tin thị trường cho hay, nhà sản xuất thanh vằn UAE đã nâng giá chào thêm 150 AED/tấn cho các lô hàng tháng 07, khiến thanh vằn nội địa UAE chạm ngưỡng 2.775-2.800 AED/tấn (755-762 USD/tấn).
Nhu cầu dự báo sẽ đi xuống trong 2-3 tháng tới, nhưng vẫn không tác động nghiêm trọng tới giá cả. Người mua hiện đang sẵn sàng trả mức 675-680 USD/tấn cfr cho các giao dịch phôi, cao hơn 35-40 USD/tấn giá yêu cầu từ Thổ Nhĩ Kỳ.
HRC được chào bán sang UAE ở ngưỡng 750-760 USD/tấn crf, tương tự giá chào đầu tháng 06. Giá HDG của nhà sản xuất nội địa Al Ghurair vẫn chốt mức 1.000 USD/tấn cả thị trường nội địa lẫn nước ngoài kể từ giữa tháng 05.