Tổng hợp tin tức đáng chú ý trong ngày
Trung Quốc
Sản lượng thép thô của Trung Quốc tiếp tục đi xuống trong mười một ngày cuối tháng 07 do nhu cầu thực tế chưa phục hồi.
Trong mười ngày cuối tháng 07, Trung Quốc đã sản xuất 21,29 triệu tấn thép thô, tương đương 1,935 triệu tấn/ngày, rớt 0,8% so với con số kỷ lục 1,95 triệu tấn/ngày trong mười ngày thứ hai tháng 07, theo ước tính từ hiệp hội sắt thép Trung Quốc (CISA). Tổng sản lượng bình quân trong tháng 07 đạt 1,95 triệu tấn/ngày, rớt 2,6% so với con số 1,998 triệu tấn/ngày.
Thị trường HRC: Giá thép cuộn cán nóng (HRC) nội địa Trung Quốc hôm thứ hai lại trở yếu do giá tại sàn và thị trường tương lai suy yếu.
Một số thương nhân tại Lecong đã hạ giá chào bán đối với HRC Q235 5.5mm khoảng 50 NDT/tấn xuống chỉ còn 4.910 NDT/tấn (763 USD/tấn),gồm VAT. Tuy nhiên, hầu hết thương nhân vẫn rất bình tĩnh và chỉ giảm nhẹ giá chào đối với cùng loại thép trên khoảng 10-20 NDT/tấn xuống còn 4.940 NDT/tấn,gồm VAT.
Trong khi đó, HRC Q235 5.5mm được chào bán rộng rãi tại Thượng Hải với giá 4.770-4.780 NDT/tấn, gồm VAT, hầu như không đổi sau khi điều chỉnh giảm 50 NDT/tấn hôm thứ 06 tuần trước.
Thị trường phế: các đại lý giao dịch dự báo thị trường phế sẽ đi xuống vào cuối tháng này, do giá thép giao kỳ hạn suy yếu.
Niềm tin của một số thương nhân vào triển vọng thị trường đã bắt đầu lung lay và sẽ sớm hạ giá chào nhằm đẩy mạnh doanh số bán.
Hiện phế HMS >6mm được chào bán rộng rãi tại tỉnh Giang Tô với giá 3.800-3.850 NDT/tấn (594-602 USD/tấn),gồm 17% VAT, tương tự như giá cuối tuần trước.
Châu Á
Thị trường phôi thanh giao ngay xuất sang Đông Nam Á vẫn trầm lắng, mặc dù khách hàng đã nâng mức giá chào mua nhưng còn thấp hơn so với giá chào bán từ các nhà cung cấp.
Phôi Hàn Quốc tuần trước xuất sang Philipine với giá 680 USD/tấn fob, còn phôi Việt Nam là 690-695 USD/tấn cfr. Khả năng giá sẽ chạm mức 700-710 USD/tấn fob vì tồn phôi hiện đã xuống thấp. Lý do khác khiến các nhà cung cấp đẩy giá lên cao đó là do đồng nội tệ tăng giá so với USD.
Tại Đài Loan, khách hàng thép không gỉ không muốn giao dịch vì giá niken đang theo xu hướng giảm, do đó chắc chắn giá thép không gỉ ít nhiều cũng sẽ đổi chiều hướng xuống.
Giá thép không gỉ 2B dòng 304 giảm của Đài Loan hiện đã giảm 2 USD/kg, nhưng khả năng giá sẽ duy trì ổn định trong tuần này vì lượng tồn hiện còn khá ít.
Châu Âu
Giá thép cuộn tại bắc Âu cũng suy yếu hơn. Tuy nhiên giá thép cuộn, thép tấm và thép cây tại nam Âu vẫn duy trì ổn định.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, giá thép cây xuất sang Dubai đã chạm mức 720 USD/tấn fob, giá xuất khẩu sang Châu Phi cũng nhích lên 720-740 USD/tấn fob.
Khoảng cách giữa giá thép cây và cuộn kéo lưới chênh nhau 20-25 USD/tấn, giá chào cuộn trơn hiện là 745-750 USD/tấn fob Marmara.
Tại Anh, nhu cầu thép tấm mỏng và thép cuộn vẫn trầm lắng trong mùa hè. HRC nội địa hiện có giá khoảng 500-510 Bảng/tấn (575-586 USD/tấn), giao tận nơi. CRC xuất kho giá 562 Bảng/tấn.
Các nhà sản xuất đang nhắm đến việc nâng giá thêm khoảng 15-20 bảng/tấn từ mức giá hiện tại.
Tại Italia, sự mất cân bằng giữa cung và cầu khiến giới sản xuất nước này quyết định kéo dài thời gian bảo trì nhà xưởng trong màu hè.
Bắc Mỹ
Giá thép tấm mỏng tại Mỹ chưa thể bật tăng khi hầu hết giới thị trường đều cho rằng giá chạm đáy vì giá giao dịch đã xuống thấp hơn so với chi phí sản xuất tại các nhà máy. Nhưng sau khi Mỹ bị hạ mức tính nhiệm do khủng hoảng nợ công, thị trường chứng khoán rớt mạnh đã tác động xấu tới thị trường của nước này.
Giá HRC và CRC tiếp tục tuột dốc so với tuần trước. HRC hiện chỉ ở khoảng 640 USD/tấn ngắn, còn CRC cũng về ngưỡng 760-800 USD/tấn ngắn. Riêng HDG vẫn được giữ mức ổn định 790-840 USD/tấn ngắn.
Trong khi đó, sản lượng lẫn công suất sản xuất thép thô của Mỹ tiếp tục tăng trong 02 tuần qua. Sản xuất thép thô trong tuần kết thúc vào ngày 06/08 đạt khoảng 1,88 triệu tấn ngắn, trong khi công suất làm việc là 76,8%, tăng từ mức 76% trong tuần kết thúc vào ngày 30/07, khi lượng sản xuất đạt khoảng 1,86 triệu tấn ngắn.
Tại Brazin, dù xuất khẩu phôi tấm chậm lại nhưng các nhà cung cấp nước này vẫn giữ giá ổn định vì nguồn cung hạn hẹp.
Giá xuất khẩu phôi tấm Brazin sang Mỹ và Mexico hiện ở mức trung bình khoảng 708-710 USD/tấn fob, còn xuất sang Đài Loan thì ở mức trung bình khoảng 680-700 USD/tấn fob.
Thị trường nguyên liệu thô
Giao dịch quặng khá đìu hiu vì khách hàng rất thận trọng với quyết định mua trước tình hình kinh tế bất ổn. Tuy nhiên giá hầu như vẫn được giữ nguyên không đổi.
Quặng 63.5/63%-Fe giao giữa tháng 09 của Ấn Độ được xuất sang Trung Quốc với giá 190 USD/tấn cfr. Quặng 62% Fe của TSI xuất sang Trung Quốc hôm qua tăng 0,1 USD/tấn so với hôm thứ Sáu tuần trước, lên mức 178,1 USD/tấn cfr nhưng giá của Platts giảm 0,5 USD/tấn xuống còn 177,5 USD/tấn (chỉ tính hàng).
Đối với phế liệu, giá thu mua tại thị trường nội địa tiếp tục giảm xuống vì cầu thấp. Phế H1 tại thị trường nội địa tuần này là 480.000-500.000 Won/tấn (442-460 USD/tấn), giảm 10-20.000 Won/tấn (9-18 USD/tấn) so với 02 tuần trước. Các nhà sản xuất Hàn Quốc vẫn tiếp tục đặt mua phế từ nước ngoài nhưng chỉ với lượng nhỏ vì họ đang cắt giảm công suất sản xuất. Phế H2 và Shindachi từ Nhật có giá lần lượt ở mức 34.500-34.800 Yên/tấn (440-444 USD/tấn) fob và 40.000 Yên/tấn fob.
diễn biến thị trường thép Trung Quốc trong ngày
Thị trường thép xây dựng
Giao kỳ hạn
Giá thép cây trên thị trường giao dịch kỳ hạn Trung Quốc tiếp tục giảm trong phiên hôm nay.
Mở cửa đầu ngày, giá hợp đồng thép cây RB1201 giao dịch ở mức 4.700 NDT/tấn, mức cao nhất trong ngày là 4.780 NDT/tấn, mức thấp nhất là 4.558 NDT/tấn, và đóng cửa tại mức 4.765 NDT/tấn, giảm 18 NDT/tấn so với hôm qua.
Giao sau
Trên thị trường giao ngay, giá cũng tiếp tục đi xuống. Tại Thượng Hải, giá thép cây 20mm HRB400 bán ở mức 4.830 NDT/tấn, giảm 20 NDT/tấn và tại Bắc Kinh, giá giảm 20 NDT/tấn còn 5.110 NDT/tấn và tại Quảng Châu, giá còn 5.260 NDT/tấn, cũng giảm 20 NDT/tấn so với ngày hôm qua.
Về giá cuộn trơn 6.5mm, giá cũng giảm trong ngày hôm nay.
Tại Thượng Hải, giá giảm 30 NDT/tấn còn 4.920 NDT/tấn; tại Bắc Kinh, giá cũng giảm 20 NDT/tấn còn 5.060 NDT/tấn và tại Quảng Châu, giá giảm 40 NDT/tấn còn 5.140 NDT/tấn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường
Chỉ số tiêu dùng CPI của Trung Quốc (chỉ số đo lượng mức độ lạm phát), trong tháng 07 đã tăng lên mức 6,5%, đây là mức tăng kỷ lục mới hàng năm trong 37 tháng qua. Còn về chỉ số giá sản xuất PPI cũng tăng ở mức 7,5% trong tháng 07. Tuy nhiên, người ta dự báo rằng khả năng trong quý Ba này, lạm phát Trung Quốc sẽ dịu xuống vì các chính sách thắt chặt kinh tế đã có tác động đáng kể đến nền kinh tế.
Thị trường thép công nghiệp
Thị trường thép cuộn cán nóng tại Thượng Hải giảm trong ngày hôm nay.
Trong đó cuộn 1500mm có giá chào bán giảm 10 NDT/tấn so với ngày hôm qua xuống mức 4.780-4.790 NDT/tấn; 1800mm cũng giảm 10 NDT/tấn xuống còn 4.790 NDT/tấn; 1500mm Mn giảm 40 NDT/tấn còn 4.880 NDT/tấn; 1800mm giảm 30 NDT/tấn còn 4.950 NDT/tấn, 2.75mm Q235 lại không có gì thay đổi ở mức 4.840 NDT/tấn và SPHC cũng ổn định quanh mức 4.830 NDT/tấn.
Về thị trường thép cuộn cán nguội, giá trong ngày hôm nay cũng dao động trong biên độ từ ổn định đến giảm nhẹ.
Trong đó, tấm 1.5mm do Angang sản xuất không đổi ở mức 5.420 NDT/tấn; 2.0mm do Benxi sản xuất giảm 10 NDT/tấn; 1.5mm SPCC do Tangshan sản xuất giảm 10 NDT/tấn còn 5.320 NDT/tấn và 1.0mm do Ma'anshan sản xuất giảm 10 NDT/tấn còn 5.350 NDT/tấn.