Trung Quốc
Thép cây: Thứ Sáu vừa qua (23/08), giá giao ngay tại thị trường nội địa miền Bắc Trung Quốc tiếp tục giảm ngày thứ sáu liên tiếp trong khi giá giao kỳ hạn đã tăng thêm 1.27%. Cụ thể tại sàn SHFE, giá giao kỳ hạn tháng 1/2014 đạt mức 3.817 NDT/tấn (619 USD/ tấn) sau 3 ngày giảm liên tiếp; giá giao ngay của loại HRB 400 18-25mm (Hegang) giảm thêm 10 NDT/tấn so với ngày trước đó, xuống còn 3.570-3.580 NDT/tấn đã gồm 17% VAT. Tính tổng trong tuần trước, giá đã giảm mất 60 NDT/tấn.
Thép không gỉ: Cuối tuần trước Taigang Stainless Steel và Baosteel thông báo tăng giá HRC và CRC austennitic lần lượt thêm 900-1.500 NDT/tấn (146-243 USD/tấn) do giá nội địa tăng và giá nguyên liệu thô chẳng hạn như gang thỏi cũng đã tăng lên. Như vậy sau điều chỉnh giá niêm yết cuộn/tấm cán nóng 304 3-12mm (Taigang) tăng thêm 900 NDT/tấn, đạt mức 16.800 NDT/tấn (2.725 USD/tấn) giao tại nhà máy trong khi thép cuộn/tấm cán nguội 304 2B 2mm tăng thêm tới 1.500 NDT/tấn lên mức 17.600 NDT/tấn đã gồm 17% VAT. Còn Baosteel nâng giá HRC và CRC thêm lần lượt 1.200 NDT/tấn và 1.500 NDT/tấn, đẩy giá HRC 304 lên mức 15.700 NDT/tấn (2.348 USD/tấn) trong khi giá CRC 2B 2mm đạt mức 17.000 NDT/tấn đã gồm 175 VAT xuất xưởng tại Thượng Hải. Tuy nhiên, giá niêm yết xuất xưởng CRC 430 2mm vẫn duy trì ổn định ở mức 9.600 NDT/tấn đã gồm 17% VAT.
Phế: Tuần qua, giá phế miền Đông Trung Quốc đã tăng thêm 80 NDT/tấn (13 USD/tấn) để hưởng ứng theo giá thép thành phẩm tăng; giá phế hạng nặng > 6mm giao ngay tại các nhà máy thuộc tỉnh Giang Tô đạt mức 2.710 NDT/tấn (443 USD/tấn) đã gồm VAT, tăng thêm 80 NDT/tấn so với tuần trước đó (12/8).
Đông Nam Á:
Thép không gỉ: hôm cuối tuần trước, giá CRC không gỉ 2B 2mm 304 Đông Nam Á đã tăng lên mức 2.350-2.400 USD/tấn CFR Đông Nam Á từ mức 2.300-2.400 USD/tấn tuần trước đó do các nhà máy tăng giá chào bán. Cụ thể giá chào bán CRC Đài Loan đạt mức 2.400-2.500 USD/tấn CFR, tăng thêm 20-50 USD/tấn so với tuần trước đó, trong khi giá CRC Hàn Quốc tăng lên mức 2.450 USD/tấn. Dự báo giá thép niêm yết tháng 9 sẽ duy trì ổn định trong tuần này.
Phế: Tuần qua, giá chào bán phế Nhật Bản vẫn tiếp tục tăng lên tại thị trường Đông Nam Á; trừ thị trường nhập khẩu phế Nhật tại Đài Loan diễn ra trầm lắng do các nhà máy trong khu vực đã nhập đủ phế Mỹ cần thiết. Trong ngày thứ sáu vừa qua (23/8), Hyundai Steel tăng giá thu mua phế H2 Nhật ở mức 32.000 Yên/tấn (323 USD/tấn) FOB từ mức giá 31.500 Yên/tấn; tuy nhiên, các nhà cung cấp phế Nhật Bản đề nghị mức giá thấp nhất là 34.500 Yên/tấn (348 USD/tấn) FOB, tăng thêm 500 Yên/tấn so với đầu tuần. Tokyo Steel cũng tăng giá thu mua phế thêm 2.000-2.500 Yên/tấn (20-25 USD/tấn) cho các chuyến hàng giao 20-23/8; giá thu mua phế H2 tại Utsunomiya, Kanto hiện tại đạt mức 34.000 Yên/tấn (343 USD/tấn). Giá phế HMS 1&2 80:20 Mỹ tại Đài Loan được chốt ở mức 358-360 USD/tấn CFR, nhích thêm 8 USD/tấn so với tuần trước đó. Giá phế 80:20 nhập khẩu tham khảo tại The Steel Index tuần qua cũng tăng 7 USD/tấn so với tuần trước đó, đạt mức 359 USD/tấn CFR Đài Loan.
Ấn Độ:
HRC: Tuần qua, đồng nội tệ suy yếu khiến cho thị trường nhập khẩu HRC nước này rơi vào trạng thái trì trệ kéo dài với mức giá chênh lệch giữa ngoài nước và thị trường nội địa đã kéo dãn ra tới 100 USD/tấn. Giá trong nước của HRC A/B IS 2062 >=3mm đạt mức trung bình 34.000-34.500 Rupee/tấn (527-535 USD/tấn) xuất xưởng, tương đương với giá nhập khẩu đạt mức 490-498 USD/tấn CFR Mumbai đã gồm 7.5% thuế hải quan, giảm 35-40 USD/tấn trong nửa tháng qua. Trong khi đó giá chào bán HRC SS400 tiêu chuẩn thương mại xuất xứ Trung Quốc >=3mm được chào bán ở mức 550-560 USD/tấn FOB Trung Quốc; nếu nhập khẩu vào Ấn Độ, mặt hàng này sẽ có giá là 585-595 USD/tấn CFR Mumbai, cao hơn giá nội địa 100 USD/tấn.
Phế: Giá nhập khẩu tham khảo hàng tuần của Ấn Độ vẫn duy trì tại 368 USD/tấn cfr cảng biển phía Tây Ấn Độ, cao hơn 2 USD/tấn so với giá tháng trước. Thị trường nhập khẩu Ấn Độ chìm vào không khí ảm đạm khi đồng nội tệ mất giá so với đôla Mỹ khiến giá phế nhập khẩu không thể cạnh tranh với hàng trong nước.
Thổ Nhĩ Kỳ
Phế: Giá tham khảo gần đây được công bố bởi TSI hôm thứ Sáu tuần trước cho thấy giá bình quân hàng ngày tính theo tuần của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 0,3%; tu7o7mg đương 1 USD/tấn lên mức 379 USD/tấn cfr Iskenderun, mức giá này cao hơn 9 USD/tấn với tháng trước.
CIS
Phôi: Nguồn tin thứ sáu qua cho hay sản lượng phôi thanh xuất khẩu từ Biển Đen đã giảm trong tuần trước do các nhà cán lại tại Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm đáng kể số lượng đơn hàng khi đồng lira bị trượt giá so với đôla Mỹ gây bất lợi cho việc nhập khẩu cũng như giá sản phẩm thép thành phẩm trong nước đã hạ nhiệt nên các nhà máy ưu tiên dùng hàng nội địa hơn. Cụ thể giá phôi thanh loại đường kính ít phổ biến sản xuất tháng 09 được giao dịch với giá 515 USD/tấn FOB Novorossiysk; các lô hàng tháng 09 thanh toán 30% bằng tiền mặt thì có giá 512 USD/tấn FOB Mariupol. Tại Platts hôm thứ Sáu, phôi thanh giảm 2 USD/tấn xuống còn 510 USD/tấn FOB Biển Đen, mức giá này đã giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Thép ống: Giá ống đúc không hàn tại Châu Âu vẫn không đổi trong 4 tháng liên tiếp do nhu cầu tiêu thụ trên thị trường tiếp tục suy yếu. Giá ống đúc loại S355 đường kính 60-160mm trong tháng này vẫn duy trì tại 880-930 EUR/tấn gồm phí giao dịch.
Mỹ
Thép không gỉ: Nhu cầu tiêu thụ cũng như xu hướng giá cả không rõ ràng tại thị trường thép không gỉ Mỹ đang gây khó khăn cho việc nhập khẩu thép cuộn cán nguội không gỉ. Tại Platts, giá nhập khẩu tháng 08 của CRC loại 304 được chốt tại 107-111 cents/lb; loại 316 có giá 156-157/cents/lb và loại 430 là 0,67-0,73 cents/lb. Tất cả các giá này đều từ bến cảng vùng Vịnh.
Cuộn trơn: Giá SAE1008B 6.5mm xuất xứ Trung Quốc có giá khoảng 535-540 USD/tấn FOB Trung Quốc, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước, trong khi đó các thương nhân Mỹ lại đặt giá quanh mức 605-615 USD/tấn CFR Houston. Tuy nhiên, các đơn hàng lại giảm không phải do giá tăng mà là vì các khách hàng tại Mỹ không có nhu cầu bổ sung hàng dự trữ trong khi lượng hàng còn khá nhiều.
Tại thị trường hàng trong nước, các nhà máy đã không thể bán cuộn trơn với giá tăng như đã thông báo trước đó do nhu cầu tiêu thụ chậm hơn so với dự đoán, bên cạnh đó lại gặp phải sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu khiến các nhà sản xuất không dám mạnh tay áp mức giá tăng vào các giao dịch của họ. Hôm giữa tháng 07, hai nhà sản xuất Keystone Steel và Wire đã thông báo tăng thêm 15 USD/tấn ngắn cho các đơn hàng tháng 08 và các nhà máy khác cũng đã nỗ lực để nâng giá theo.
HRC: Tại Platts hôm thứ sáu tuần trước, giá niêm yết giảm 7,5 USD/tấn ngắn xuống còn 650-665 USD/tấn ngắn xuất xưởng Indiana. Giá HRC nhập khẩu vẫn duy trì tại 580-600 USD/tấn ngắn CIF Houston, được xem là rẻ hơn so với hàng trong nước.
CRC: Tại Platts hôm thứ sáu tuần trước, giá niêm yết giảm 5 USD/tấn ngắn còn 760-770 USD/tấn ngắn xuất xưởng Indiana.
Phế: Tuần Vừa qua, giá phế cũ tham khảo hàng tuần vẫn không đổi so với tuần trước đó, nhưng lại thấp hơn 14 USD/tấn dài so với tháng trước.